Thứ Tư, 02/08/2017, 19:50 (GMT+7)
.

Triển khai 12 Quyết định giải quyết các vụ khiếu nại thuộc Dự án QL1A

7. Bà Nguyễn Thị Bi (ngụ khu phố 1, phường 5, TX. Cai Lậy):

1. Yêu cầu bồi thường 92,9 m2 đất bị thu hồi theo giá đất ở:  Phần diện tích này được UBND huyện Cai Lậy cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ), với mục đích sử dụng là đất nông nghiệp. Do vậy, việc Hội đồng Bồi thường huyện Cai Lậy áp giá bồi thường 7,9/92,9 m2 đất theo loại đất ở, Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết bồi thường tiếp 85 m2 đất còn lại theo giá đất ở và 14,6 m2 đất (không thu hồi) theo loại đất nông nghiệp năm 2014 tại Quyết định 1644/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 là chưa đúng quy định của Luật Đất đai 2003, Nghị định 181/NĐ-CP ngày 29-10-2004 và Nghị định 197/NĐ-CP ngày 3-12-2004 của Chính phủ.

Ông Hà Thanh Hữu, Chủ tịch UBND TX. Cai Lậy giải trình khiếu nại của người dân tại các buổi tiếp xúc, đối thoại.
Ông Hà Thanh Hữu, Chủ tịch UBND TX. Cai Lậy giải trình khiếu nại của người dân tại các buổi tiếp xúc, đối thoại.

2. Yêu cầu bồi thường 27 m2 đất taluy QL1A: Diện tích này là đất taluy hiện hữu của QL1A được hình thành trước năm 1975, bà Bi không được cấp chủ quyền và Nhà nước không thu hồi để mở rộng QL1A. Do vậy, khiếu nại của bà Bi không có cơ sở pháp luật để giải quyết. Việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 1644/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 giải quyết theo yêu cầu của bà Bi là chưa đúng thẩm quyền. (Quyết định 2225/QĐ-UBND ngày 20-7-2017 của UBND tỉnh).

8. Bà Nguyễn Thị Quên (ngụ ấp Quý Trinh, xã Nhị Quý, TX. Cai Lậy):

1. Yêu cầu bồi thường 334,4 m2 đất theo giá đất ở: Phần diện tích này được Nhà nước cấp chủ quyền là đất nông nghiệp, nên Hội đồng Bồi thường áp giá đền bù đất nông nghiệp là đúng quy định của Luật Đất đai 2003 và Nghị định 181/NĐ-CP năm 2004 của Chính phủ. Việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 1620/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 bồi thường 334,4 m2 đất cho bà Quên theo giá đất ở là chưa đúng quy định của pháp luật.

2. Yêu cầu bồi thường 476,9 m2 đất taluy và mương lộ QL1A: Đây là đất taluy và mương lộ hiện hữu của QL1A được hình thành trước năm 1975, Nhà nước không thu hồi và bà Quên không được cấp chủ quyền. Do vậy, khiếu nại của bà không có cơ sở để xem xét, giải quyết. Việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 1620/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 giải quyết là chưa đúng thẩm quyền. (Quyết định 2228/QĐ-UBND ngày 20-7-2017 của UBND tỉnh).

9. Ông Trần Minh Thức (ngụ ấp Quý Phước, xã Nhị Quý, TX. Cai Lậy):

1. Yêu cầu bồi thường 155,5 m2 đất theo giá đất ở: Phần diện tích này được Nhà nước cấp chủ quyền là đất nông nghiệp cho ông Trần Văn Do (cha ông Thức) đứng tên quyền sử dụng, nên Hội đồng Bồi thường huyện Cai Lậy áp giá đền bù đất nông nghiệp và hỗ trợ đất xen kẽ khu dân cư 20% giá đất ở là phù hợp theo Phương án 126 của UBND tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ông Thức đã nhận đủ tiền bồi thường, hỗ trợ, không khiếu nại.

2. Yêu cầu bồi thường 83,4 m2 đất taluy QL1A: Phần diện tích này là đất taluy hiện hữu của QL1A, Nhà nước không thu hồi và ông Thức không được cấp quyền sử dụng đất. Do vậy, yêu cầu bồi thường của ông là không có căn cứ pháp luật để giải quyết. Việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 1648/QĐ-UBND ngày

30-6-2015 giải quyết là chưa đúng thẩm quyền. (Quyết định 2235/QĐ-UBND ngày 20-7-2017 của UBND tỉnh).

10. Ông Mai Văn Đèo (ngụ ấp Quý Thạnh, xã Tân Hội, TX. Cai Lậy):

1. Yêu cầu bồi thường 156,2 m2 đất bị thu hồi theo giá đất ở: Diện tích này được Nhà nước cấp quyền sử dụng là đất nông nghiệp (đất quả), đã được Hội đồng Bồi thường áp giá đền bù đất nông nghiệp và hỗ trợ 20% đất ở là đúng theo Phương án 126 của UBND tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ông Đèo đã nhận đủ tiền bồi thường, hỗ trợ, không khiếu nại.

2. Yêu cầu bồi thường 53 m2 đất taluy QL1A: Diện tích này hiện hữu là đất taluy QL1A, không được Nhà nước cấp chủ quyền, cho nên ông Đèo yêu cầu bồi thường là không có cơ sở pháp lý để giải quyết. Việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 1649/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 giải quyết là chưa đúng thẩm quyền. (Quyết định 2236/QĐ-UBND ngày
20-7-2017 của UBND tỉnh).

11. Bà Nguyễn Thị Hai (ngụ ấp Bình Tịnh, xã Bình Phú, huyện Cai Lậy):

1. Yêu cầu bồi thường 20,2 m2 đất bị thu hồi theo giá đất ở:  Phần diện tích này được UBND huyện hỗ trợ theo loại đất ở cho bà là đúng theo Phương án 126 của UBND tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tại Quyết định 1643/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 của Chủ tịch UBND tỉnh bồi thường 20,2 m2 đất theo giá đất ở năm 2014 cho bà Hai là chưa đúng quy định.

2. Yêu cầu bồi thường 11,3 m2 đất taluy QL1A: Là không có căn cứ để giải quyết, vì đây là đất taluy hiện hữu của QL1A. Việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 1643/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 giải quyết là chưa đúng thẩm quyền. (Quyết định 2234/QĐ-UBND ngày 20-7-2017 của UBND tỉnh).

12. Bà Võ Thị Lang (ngụ ấp Bình Quới, xã Bình Phú, huyện Cai Lậy):

1. Yêu cầu bồi thường 55,1 m2 đất bị thu hồi: Phần diện tích này được Nhà nước cấp chủ quyền là đất nông nghiệp. Do vậy, việc UBND huyện Cai Lậy áp giá bồi thường đất nông nghiệp là đúng quy định của Luật Đất đai 2003 và Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ. Tại Quyết định 1636/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 của Chủ tịch UBND tỉnh bồi thường 55,1 m2 đất cho bà Lang theo giá đất ở năm 2014 là chưa đúng quy định.

2. Yêu cầu bồi thường 30,6 m2 đất taluy QL1A: Là không có cơ sở pháp lý để giải quyết, vì diện tích này là taluy hiện hữu của QL1A, Nhà nước không thu hồi và bà Lang không được cấp quyền sử dụng. Việc Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 1636/QĐ-UBND ngày 25-6-2015 giải quyết là chưa đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. (Quyết định 2227/QĐ-UBND ngày 20-7-2017 của UBND tỉnh).

* *
*

Như vậy, cho đến thời điểm này, UBND tỉnh cùng các sở, ngành tỉnh, huyện Cai Lậy và TX. Cai Lậy đã tổ chức tiếp xúc, đối thoại 40/41 hộ dân khiếu nại liên quan đến Dự án “Mở rộng, nâng cấp QL1A năm 2005” và đã ban hành 39/41 Quyết định giải quyết theo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ tại Công văn 5088/VPCP-V.I ngày 18-5-2017 của Văn phòng Chính phủ. Còn lại 1 trường hợp, qua đối thoại có bổ sung giấy tờ liên quan đến quá trình sử dụng đất nên phải kiểm tra, rà soát lại trước khi ban hành quyết định giải quyết và 1 trường hợp vắng mặt trong buổi tổ chức đối thoại.  

    TỔ CTBĐ

.
.
.