Thứ Sáu, 11/11/2022, 09:53 (GMT+7)
.
PHÓ GIÁM ĐỐC SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG TIỀN GIANG NGUYỄN VĂN ĐẬM:

Chuyển đổi số - bước đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội

Trong bối cảnh hiện nay, chuyển đổi số vừa được xem là mục tiêu, vừa là giải pháp nhằm xây dựng Chính quyền số, kinh tế số, xã hội số; đồng thời, góp phần hình thành các doanh nghiệp công nghệ số có năng lực đi ra toàn cầu. Vậy đối với tỉnh, công cuộc chuyển đổi số đang diễn ra như thế nào, với những kết quả đạt được ra sao? Nhằm làm rõ hơn những vấn đề đặt ra cho công cuộc chuyển đổi số của tỉnh Tiền Giang, phóng viên Báo Ấp Bắc có cuộc trao đổi với Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông (TT-TT) Nguyễn Văn Đậm.

* Phóng viên (PV): Xin đồng chí cho biết một số kết quả bước đầu đạt được từ quá trình chuyển đổi số ở Tiền Giang trong thời gian qua?

* Đồng chí Nguyễn Văn Đậm: Thực hiện Nghị quyết 08 ngày 8-10-2022 của Tỉnh ủy Tiền Giang về Chuyển đổi số tỉnh Tiền Giang đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 và Kế hoạch 370 ngày 6-12-2021 của UBND tỉnh về Chuyển đổi số tỉnh Tiền Giang giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, Sở TT-TT đã tham mưu UBND tỉnh triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đẩy nhanh chuyển đổi số trong các ngành, lĩnh vực trên địa bàn tỉnh, qua đó đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong thời gian qua.

- Về phát triển chính quyền số: Đã thực hiện nâng cấp các hệ thống thông tin dùng chung của tỉnh; xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu một số ngành như: Hệ thống kết nối thông tin nông nghiệp, nông dân, nông thôn; hệ thống thông tin quản lý kết cấu hạ tầng giao thông vận tải; cơ sở dữ liệu ngành Văn hóa - Thể thao và Du lịch, triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) vào các lĩnh vực đời sống, thí điểm quan trắc môi trường, độ mặn, nông nghiệp… phục vụ nhu cầu thông tin người dân và doanh nghiệp; đồng thời, tích hợp, liên thông dữ liệu ngành Giáo dục và đào tạo, ngành Y tế từ tỉnh đến cơ sở.

- Về phát triển kinh tế số: Tỉnh đã thực hiện tuyên truyền, quảng bá thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm OCOP của tỉnh trên các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội; triển khai các gian hàng trên các sàn thương mại điện tử Postmart, Voso, sàn giao dịch thương mại điện tử tỉnh Tiền Giang (TienGiang Trade). Theo thống kê từ Cổng thông tin của Bộ TT-TT, đến hết quý III-2022 Tiền Giang có 212.336 hộ sản xuất nông nghiệp lên sàn thương mại điện tử (voso.vn và postmart.vn) với 1.317 loại sản phẩm và 11.076 lượt giao dịch trên các sàn thương mại điện tử.

Khu công viên phần mềm Mekong (Mekong ITP) đã đi vào hoạt động. Mekong ITP có diện tích gần 7 ha và hơn 20.000 m2 sàn đã xây dựng. Hiện nay, có 4 công ty mở chi nhánh, thu hút hơn 100 lao động CNTT, cùng với đội ngũ hơn 200 kỹ sư CNTT của VNPT đang làm việc tại đây tạo nên một cộng đồng, môi trường làm việc năng động, sáng tạo và thu hút nhân lực CNTT. Đây là nền tảng quan trọng để phát triển sản phẩm, dịch vụ CNTT phục vụ cho quá trình chuyển đổi số.

- Về phát triển xã hội số: Hệ thống tiếp nhận phản ánh kiến nghị (Tổng đài hỗ trợ dịch vụ công 1022 Tiền Giang), theo thống kê trong 9 tháng năm 2022, hệ thống đã tiếp nhận 2.663 phản ánh kiến nghị từ người dân, doanh nghiệp. Bên cạnh đó, tỉnh đã triển khai nền tảng công dân số (ứng dụng TienGiangS) nhằm giúp cho việc tiếp nhận, xử lý, phản hồi ý kiến, phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức được kịp thời, hiệu quả, tăng cường tính công khai, minh bạch, góp phần xây dựng chính quyền thân thiện, phục vụ người dân, doanh nghiệp hướng đến Chính quyền số, với mục tiêu “lấy người dân làm trọng tâm”.

Trung tâm Giám sát và điều hành đô thị thông minh thực hiện giám sát trên 200 camera, trong đó trên 80 camera thông minh; giám sát hệ thống phòng, chống mã độc tập trung của tỉnh; phối hợp chia sẻ thông tin với UBND TP. Mỹ Tho và Công an TP. Mỹ Tho thí điểm xử phạt các hành vi vi phạm giao thông, vi phạm vệ sinh, trật tự đô thị.

Tỉnh cũng đã thành lập các Tổ công nghệ số cộng đồng (CNSCĐ) đến các xã, các ấp, với hơn 8.000 thành viên. Sở TT-TT phối hợp với các đơn vị có liên quan tổ chức 2 đợt tập huấn cho Tổ CNSCĐ địa phương; xây dựng tài liệu, các clip hướng dẫn nhằm trang bị các kiến thức cơ bản về chuyển đổi số cho Tổ CNSCĐ tại địa phương để các thành viên của tổ có thể hướng dẫn, hỗ trợ người dân cài đặt, sử dụng nền tảng số, công nghệ số, kỹ năng số và đưa công nghệ số vào mọi ngõ ngách của cuộc sống.

* PV: Theo lộ trình, việc chuyển đổi số trên địa bàn tỉnh sẽ tập trung ưu tiên vào lĩnh vực nào? Những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện chuyển đổi số trên địa bàn hiện nay là gì, thưa đồng chí?

* Đồng chí Nguyễn Văn Đậm: Theo Chương trình Chuyển đổi số quốc gia và của tỉnh, Chuyển đổi số tỉnh Tiền Giang đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, có 8 ngành, lĩnh vực được ưu tiên chuyển đổi số đến năm 2025. Đây là những lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hằng ngày đến người dân, gồm: Chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục, bao gồm phát triển ứng dụng nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa; nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến; số hóa tài liệu, giáo trình; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập.

Chuyển đổi số của Tiền Giang có bước chuyển biến tích cực.
Chuyển đổi số của Tiền Giang có bước chuyển biến tích cực.

Chuyển đổi số trong lĩnh vực y tế sẽ tập trung vào các nhiệm vụ như: Phát triển nền tảng hỗ trợ khám, chữa bệnh từ xa để hỗ trợ người dân được khám, chữa bệnh từ xa, giúp giảm tải các cơ sở y tế; thúc đẩy chuyển đổi số tại các cơ sở khám, chữa bệnh, hình thành cơ sở dữ liệu y tế. Chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp sẽ phát triển nông nghiệp theo hướng công nghệ cao, chú trọng nông nghiệp thông minh; ứng dụng công nghệ số để tự động hóa các quy trình; ứng dụng truy xuất nguồn gốc; đẩy mạnh cung cấp thông tin về môi trường, thời tiết cho nông dân qua các nền tảng số.

Bên cạnh đó, sẽ thực hiện chuyển đổi số lĩnh vực tài nguyên và môi trường, giải pháp được ưu tiên là xây dựng các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn nhằm quản lý hiệu quả lĩnh vực tài nguyên và môi trường, cụ thể như: Cơ sở dữ liệu đất đai, cơ sở dữ liệu về quan trắc tài nguyên và môi trường, đa dạng sinh học, nguồn thải, viễn thám, biển và hải đảo, biến đổi khí hậu...

Chuyển đổi số trong lĩnh vực giao thông vận tải sẽ tập trung triển khai chuyển đổi số lĩnh vực giao thông vận tải và logistics, sẽ tập trung phát triển hệ thống giao thông thông minh, tập trung vào các hệ thống giao thông đô thị, quốc lộ, tỉnh lộ; chuyển đổi các hạ tầng logistics, thúc đẩy chuyển đổi số trong phát triển, khai thác hệ thống kho, bến, bãi phục vụ vận tải và logistics. Chuyển đổi số trong lĩnh vực công nghiệp sẽ chú trọng tạo ra các sản phẩm thông minh, xây dựng dịch vụ về dữ liệu và phát triển kỹ năng số cho người lao động.

Ngoài ra, Tiền Giang sẽ tập trung chuyển đổi số trong lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội, hướng đến xây dựng hệ thống thông tin của ngành về nguồn lực, nguồn cung, cầu lao động, thông tin các đối tượng xã hội; đẩy mạnh ứng dụng CNTT, trí tuệ nhân tạo vào quản lý, thống kê và dự báo tình hình cung, cầu lao động trên địa bàn tỉnh.

Riêng chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa, du lịch sẽ tập trung triển khai số hóa dữ liệu các khu di tích lịch sử, văn hóa, du lịch trọng điểm để quảng bá hình ảnh tỉnh Tiền Giang; chuẩn hóa các nội dung số kết hợp với công nghệ 3D, 4D để giới thiệu hình ảnh văn hóa, du lịch của tỉnh và phát triển ứng dụng du lịch thông minh trên thiết bị di động.

Trong giai đoạn đầu thực hiện chuyển đổi số sẽ có nhiều khó khăn, thách thức. Chuyển đổi số liên quan đến thay đổi thói quen, cách làm của các thành viên liên quan nên cũng đặt ra nhiều thách thức. Ngành công nghiệp CNTT của tỉnh chưa phát triển; tình hình ứng dụng CNTT của doanh nghiệp và nhân dân còn hạn chế; số doanh nghiệp CNTT phục vụ quá trình chuyển đổi số chưa nhiều. Nhiều doanh nghiệp của tỉnh chưa chủ động tiếp cận, ứng dụng, phát triển công nghệ hiện đại.

Bên cạnh đó, điều kiện ngân sách địa phương còn hạn hẹp nên nguồn lực đầu tư cho chuyển đổi số còn hạn chế. Tỷ lệ doanh nghiệp, người dân hiểu rõ và sử dụng về công nghệ số, các dịch vụ Chính quyền số còn thấp; nguồn nhân lực CNTT và truyền thông chất lượng cao chưa đáp ứng nhu cầu.

* PV: Để công cuộc chuyển đổi số có thể được tiến hành hiệu quả và tạo ra bước chuyển mới - cao về chất - trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội thì cần những yếu tố, giải pháp nào?

* Đồng chí Nguyễn Văn Đậm: Chủ động, tích cực chuyển đổi số là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài. Sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp và toàn xã hội là yếu tố bảo đảm sự thành công của chuyển đổi số, là giải pháp đột phá, cơ hội để bứt phá trong phát triển kinh tế - xã hội.

Chuyển đổi số phải hướng đến lợi ích của người dân, doanh nghiệp; lấy người dân là trung tâm của chuyển đổi số để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Chính quyền cần chuyển đổi số để phục vụ người dân tốt hơn; thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi số là sự trang bị cần thiết để doanh nghiệp phát triển trong kỷ nguyên số, kinh tế số.

Con người là chủ thể và có vai trò quyết định trong thực hiện chuyển đổi số, vì vậy trong thời gian tới Sở TT-TT sẽ tham mưu tăng cường tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức, viên chức về Chính quyền số, chuyển đổi số; tăng cường công tác tập huấn, định hướng về kỹ năng số, công nghệ số cho các Tổ CNSCĐ với hơn 8.000 thành viên hoạt động hiệu quả. Đây sẽ là lực lượng trực tiếp hỗ trợ người dân sử dụng thiết bị số, công nghệ số; giúp đỡ, đưa nguời dân lên môi trường số, đưa sản phẩm lên các sàn thương mại điện tử, ví điện tử, thanh toán không dùng tiền mặt, sử dụng các dịch vụ công trực tuyến…

Bên cạnh đó, việc triển khai đồng bộ hệ thống thông tin các ngành, đưa hoạt động của các cơ quan, doanh nghiệp, người dân lên môi trường số là cần thiết trong quá trình chuyển đổi số; ưu tiên triển khai các công nghệ mới, thiết bị IoT, thiết bị thông minh trong quản lý, điều hành, trong giám sát an toàn giao thông, trật tự đô thị… hướng đến cung cấp dịch vụ công trực tuyến ở mức độ cao hơn, triệt để hơn, đặc biệt là trên ứng dụng di động.

* PV: Xin cảm ơn đồng chí!

LÊ PHƯƠNG (thực hiện)
 

.
.
.