.

Đồng bằng sông Cửu Long: "Khơi thông"chuỗi logistics

Cập nhật: 10:30, 20/06/2022 (GMT+7)

Hệ thống logistics còn thiếu liên kết và đồng bộ đang là “điểm nghẽn” trong phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Để tháo gỡ “nút thắt” này, việc hoàn thiện hệ thống hạ tầng giao thông đang được Chính phủ tập trung đầu tư.

Hạ tầng giao thông  hiện đang là “điểm nghẽn” trong phát triển  chuỗi logistics.
Hạ tầng giao thông hiện đang là “điểm nghẽn” trong phát triển chuỗi logistics.

Vùng ĐBSCL dù đã được Đảng và Chính phủ quan tâm đầu tư, song kết cấu hạ tầng giao thông vẫn chưa đồng bộ, còn nhiều hạn chế. Hạ tầng giao thông vùng ĐBSCL vừa yếu, vừa thiếu đang là rào cản lớn trong phát triển chuỗi logistics. Điều này còn làm giảm sức cạnh tranh đối với hàng hóa và thu hút đầu tư, phát triển kinh tế của vùng.

HẠ TẦNG CẢN BƯỚC

Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ (PGS. TS) Hồ Thị Thu Hòa, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Phát triển logistics Việt Nam, hiện nay hàng hóa được vận chuyển bằng đường bộ tại ĐBSCL chiếm đến 80%, chủ yếu đến các cảng khu vực TP. Hồ Chí Minh và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để xuất khẩu. Trong những năm qua, hạ tầng đường bộ được xem là “điểm nghẽn” kìm hãm sự phát triển của vùng.

Trong 7 tuyến cao tốc được quy hoạch tại ĐBSCL, các tuyến TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương, Vàm Cống - Rạch Sỏi, Trung Lương - Mỹ Thuận đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Dù góp phần không nhỏ trong việc giảm thời gian từ Cần Thơ đi Kiên Giang, nhưng chưa giải quyết được bài toán căn bản về giao thông cho vùng ĐBSCL, mà cụ thể là giảm ách tắc do quá tải cho Quốc lộ 1.

Theo đánh giá của PGS. TS. Hồ Thị Thu Hòa, cao tốc TP. Hồ Chí Minh - Trung Lương, Trung Lương - Mỹ Thuận đã giúp rút ngắn thời gian kết nối giữa ĐBSCL và TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, các “cửa ngõ” kết nối cao tốc này đang bị quá tải bởi năng lực Quốc lộ 1 còn hạn chế.

Tháng 6-2021, Thủ tướng Chính phủ đã có Công văn 808 phê duyệt đề xuất Dự án “Phát triển các hành lang đường thủy và logistics khu vực phía Nam” với tổng mức đầu tư 242,7 triệu USD sẽ được đầu tư bằng nguồn vốn vay Ngân hàng Thế giới, viện trợ của Chính phủ Úc và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam. Dự án có mục tiêu nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng đường thủy nội địa tại khu vực ĐBSCL và TP. Hồ Chí Minh; trong đó có 2 hành lang đường thủy gồm: Hành lang Đông - Tây kết nối khu vực ĐBSCL (trung tâm kinh tế Cần Thơ) - TP. Hồ Chí Minh - cụm cảng Cái Mép - Thị Vải và Hành lang Bắc - Nam liên kết Bình Dương - Đồng Nai - TP. Hồ Chí Minh - cụm cảng Cái Mép - Thị Vải. Sau khi hoàn thành, dự án hứa hẹn giúp rút ngắn thời gian chạy tàu từ ĐBSCL đến TP. Hồ Chí Minh và các cảng chính trong khu vực, góp phần giảm chi phí logistics và thúc đẩy vận tải đa phương thức.

Ngoài “nút thắt” giao thông đường bộ, dù có nhiều tiềm năng, lợi thế, nhưng việc khai thác hệ thống giao thông đường thủy ở ĐBSCL vẫn chưa phát huy hiệu quả. Cụ thể, ngân sách đầu tư cho đường thủy nội địa giảm từ 2% - 3% tổng ngân sách đầu tư giao thông trong giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn 1,2% trong giai đoạn 2016 - 2020.

Do đó, dù ĐBSCL có nhiều lợi thế và tiềm năng to lớn để phát triển với hệ thống sông ngòi chằng chịt, với tổng chiều dài gần 28.000 km, nhưng hiện vận tải thủy nội địa chỉ đóng vai trò tập kết, thu gom hàng hóa với quy mô còn rất hạn chế.

“Hiện nay, các cảng tại khu vực ĐBSCL có thể dễ dàng kết nối đến Philippines, Indonesia, nhưng tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu của vùng thông qua các cảng tại đây chỉ đạt từ 10% - 20%. Trong khi đó, các cảng như Cái Cui chỉ khai thác khoảng 60% - 70% công suất thiết kế. Nguyên nhân do bồi lắng nên kinh Quan Chánh Bố chỉ đáp ứng được các tàu tải trọng 5.000 DWT, trong khi các tàu vận tải hàng xuất khẩu thường có tải trọng từ 20.000 DWT trở lên” - PGS. TS. Hồ Thị Thu Hòa cho biết thêm.

Mặt khác, kinh Chợ Gạo (tỉnh Tiền Giang), tuyến đường thủy độc đạo nối TP. Hồ Chí Minh với các tỉnh ĐBSCL, thời gian qua cũng bị bồi lắng, chưa được đầu tư nạo vét kịp thời đã ảnh hưởng đến việc vận tải hàng hóa. Dù Dự án Nâng cấp kinh Chợ Gạo giai đoạn 2 đã được khởi công, nhưng tiến độ triển khai vẫn còn chậm nên chưa thể phát huy hết hiệu quả, tạo thuận lợi cho tàu thuyền lưu thông.

Theo đánh giá của Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Thành Phong, “điểm nghẽn” lớn nhất đối với phát triển kinh tế ĐBSCL chính là hệ thống logistics kết nối tất cả các bên trong toàn bộ chu trình sản xuất tới tiêu dùng. Chi phí logistics tại ĐBSCL đang là gánh nặng đối với năng lực cạnh tranh của các sản phẩm sản xuất ra tại ĐBSCL.

Cụ thể, chi phí logistics tại ĐBSCL chiếm tới 30% giá thành sản phẩm. Nguyên nhân chính của “điểm nghẽn” này được các chuyên gia đánh giá là do hệ thống logistics tại ĐBSCL còn thiếu liên kết và đồng bộ, trong đó hệ thống cảng biển còn thiếu, nhất là cảng nước sâu cho tàu vận chuyển container xuất khẩu.

TẬP TRUNG ĐẦU TƯ HẠ TẦNG LOGISTICS

Trên thực tế, phát triển hệ thống logistics ĐBSCL là một giải pháp cấp bách hiện nay để nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam nói chung và sự phát triển bền vững cho nông sản ĐBSCL nói riêng.

Hệ thống logistics cần được quan tâm đầu tư.
Hệ thống logistics cần được quan tâm đầu tư.

Theo tinh thần của Nghị quyết 13 ngày 2-4-2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, khu vực ĐBSCL sẽ được tập trung đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng logistics gồm: Đường bộ, đường thủy nội địa, bến cảng, sân bay, đường không, các kho bãi. Hiện Bộ Giao thông Vận tải đã báo cáo Chính phủ để hình thành cảng biển nước sâu ở ĐBSCL với đặc thù là cảng cách xa bờ, có thể tiếp nhận được tàu trọng tải lớn, hạn chế tình trạng phải nạo vét.

Theo Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Văn Thành, ĐBSCL hiện đang triển khai đồng loạt trên 400 km đường cao tốc. Trong thời gian tới, Chính phủ và các địa phương phải tập trung rất cao để phấn đấu đến năm 2025 hoàn thành thêm khoảng 400 km đường cao tốc nữa với nguồn vốn trên 100.000 tỷ đồng.

Cụ thể, trong năm 2022, chúng ta phải khởi công tuyến đường cao tốc từ Cần Thơ về Cà Mau và phấn đấu đến tháng 6-2023 khởi công tuyến cao tốc từ Châu Đốc về Trần Đề. Cả 2 tuyến đường này sẽ cơ bản hoàn thành vào năm 2025. Đây là cơ hội rất lớn để tạo ra động lực mới, không gian mới để phát triển hạ tầng giao thông khu vực ĐBSCL.

Và để hoàn thiện chuỗi logistics khu vực ĐBSCL, theo đồng chí Nguyễn Thành Phong, cần phải xây dựng được các trung tâm logistics lớn, các doanh nghiệp logistics lớn đủ tiềm lực. Điều này nhằm khép kín hệ sinh thái logistics với giải pháp tích hợp đầu cuối từ vận tải quốc tế bằng đường biển sang logistics nội địa với hệ thống kho bãi, môi giới hải quan, công nghệ vận tải đường bộ, qua đó giúp tiết kiệm được chi phí nhờ quy mô.

Hiện nay, TP. Cần Thơ, tỉnh Long An, Hậu Giang đang quy hoạch các trung tâm logistics tại từng địa phương. Tuy nhiên, cần đảm bảo tính kết nối của các trung tâm này với nhau và với trung tâm logistics TP. Hồ Chí Minh.

Đặc điểm của ĐBSCL là sản xuất nông nghiệp với quy mô lớn còn hạn chế. Do đó, những dịch vụ logistics rất quan trọng mà người sản xuất ở vùng này cần đến là dịch vụ về cung ứng đầu vào, dịch vụ tư vấn kế hoạch thu hoạch, phân phối, marketing… Phát triển cơ sở dữ liệu khách hàng, nắm bắt nhu cầu khách hàng để đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ logistics là xu hướng phát triển hiện nay, đặc biệt là nhờ công nghệ dữ liệu lớn cho phép tối ưu hóa từng quá trình logistics.

Cũng theo đồng chí Nguyễn Thành Phong, ĐBSCL cần thiết lập mạng lưới trung tâm phân phối nhiều cấp trong các đô thị lớn và các vùng kinh tế trọng điểm. Để phát triển logistics cần tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics và vận tải. Đồng thời, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực ngành logistics, vận tải hàng hải để đáp ứng nhanh nhu cầu nhân lực qua đào tạo…

T. ĐẠT

.
.
.