Thứ Hai, 10/07/2017, 21:35 (GMT+7)
.
BÁC SĨ NGUYỄN THÀNH SANG, CHI CỤC TRƯỞNG CHI CỤC DS-KHHGĐ TỈNH:

Mất cân bằng giới tính khi sinh mang đến nhiều hệ lụy

Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) là số bé trai đẻ (sinh) sống trên 100 bé gái đẻ sống trong một khoảng thời gian và một địa bàn nhất định. Phần lớn các quốc gia trên thế giới có TSGTKS dao động ở mức 104 - 106/100. Mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS) là số bé trai đẻ sống/100 bé gái lớn hơn 107. MCBGTKS là vấn đề đáng báo động ở nhiều quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam. Bác sĩ Nguyễn Thành Sang, Chi cục trưởng Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tỉnh Tiền Giang chia sẻ:

Quyết tâm can thiệp để làm giảm mất cân bằng giới tính. 	Ảnh: CAO LẬP ĐỨC
Quyết tâm can thiệp để làm giảm mất cân bằng giới tính. Ảnh: CAO LẬP ĐỨC

MCBGTKS đang là mối quan ngại ngày càng tăng tại một số quốc gia châu Á - nơi có đến 117 triệu phụ nữ và trẻ em gái - được báo cáo “thiếu”. Sẽ có hàng chục triệu đàn ông sống độc thân đến chết. Dư thừa nam sẽ dẫn đến tăng bạo lực giới, phạm tội và bất ổn xã hội.

Tại Việt Nam, TSMCBGTKS bắt đầu tăng từ năm 1979 và tăng nhanh từ năm 2006. Kết quả điều tra năm 2011 cho thấy, có sự khác biệt về TSMCBGTKS chia theo các vùng kinh tế - xã hội. Đồng bằng sông Hồng là vùng có TSMCBGTKS cao nhất (122,4 bé trai/100 bé gái), kế đến là Đồng bằng sông Cửu Long (114,9). Sự gia tăng bất thường về TSGTKS của Việt Nam trong những năm gần đây đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách, các cơ quan thông tin đại chúng cũng như các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

TSGTKS của Tiền Giang thấp hơn TSGTKS của cả nước (trừ năm 2009). TSGTKS của Tiền Giang tăng liên tục 4 năm, từ năm 2010 đến năm 2013; sau vài năm can thiệp, giai đoạn 2014 - 2016, TSGTKS có xu hướng không tăng. Tuy nhiên, để TSGTKS giảm trong những năm tiếp theo, cần có thời gian; đồng thời cần tiếp tục tuyên truyền, can thiệp để làm giảm MCBGTKS.

* PV: Ông cho biết những hệ lụy của MCBGTKS tại Việt Nam?

* BÁC SĨ NGUYỄN THÀNH SANG: Gia tăng TSGTKS dẫn đến các hệ lụy khó lường về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh trật tự. Dư thừa nam giới, thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn dẫn đến tan vỡ cấu trúc gia đình truyền thống; số lượng và tỷ lệ nam giới không có khả năng kết hôn tăng; khả năng “nhập khẩu cô dâu” khó khả thi. Gia tăng bất bình đẳng giới, phụ nữ kết hôn sớm, tỷ lệ ly hôn, tái hôn cao và bạo hành giới.

Số phụ nữ Việt Nam lấy chồng Trung Quốc, Hàn Quốc ngày càng tăng. Phụ nữ lấy chồng nước ngoài và đến sinh sống tại nơi mà họ không biết về văn hóa, phong tục tập quán, lối sống và không biết tiếng đã đặt họ trước những nguy cơ cao về cô lập, bạo lực và lạm dụng.

Tình trạng dư thừa nam giới trong độ tuổi kết hôn có thể sẽ dẫn tới tan vỡ cấu trúc gia đình, một bộ phận nam giới sẽ phải kết hôn muộn và nhiều người trong số họ không thể tìm được bạn đời. Một giải pháp tình thế được một số nước đang áp dụng, đó là kết hôn với người nước ngoài (còn gọi là nhập khẩu cô dâu), nhưng xem ra khó bền vững. Việc gia tăng TSGTKS không những không cải thiện được vị thế của người phụ nữ, mà thậm chí còn làm gia tăng sự bất bình đẳng giới như: Nhiều phụ nữ phải kết hôn sớm hơn, tỷ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ tăng cao, tình trạng bạo hành giới, mua dâm, buôn bán phụ nữ sẽ gia tăng… Vì thế, TSGTKS được coi là một trong những chỉ báo quan trọng để đánh giá mức độ bình đẳng giới. Sự chênh lệch con số tuyệt đối giữa nam và nữ ở Việt Nam vào năm 2050 sẽ khoảng từ 2,3 - 4,3 triệu người theo các phương án nêu trên.

Nếu không có sự can thiệp tích cực nhằm giảm tốc độ gia tăng MCBGTKS thì TSGTKS ở nước ta có thể tiếp tục tăng lên 125 vào năm 2020 và tiếp tục duy trì ở mức này cho đến năm 2050.

* PV: Về các giải pháp can thiệp nhằm giảm tình trạng MCBGTKS đã thực hiện?

* BÁC SĨ NGUYỄN THÀNH SANG: Việt Nam có quyết tâm can thiệp để làm giảm tình trạng MCBGTKS, thể hiện trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Chiến lược Dân số và Sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã đặt mục tiêu tỷ số giới tính khi sinh không vượt quá 113 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái vào năm 2015 và 115/100 vào năm 2020. Chủ động kiểm soát và giải quyết các nguyên nhân sâu xa làm MCBGTKS; xử lý nghiêm các thực hành lựa chọn giới tính thai nhi.

Tăng cường công tác bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái là một trong các giải pháp then chốt giúp giải quyết vấn đề MCBGTKS. Nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi: Nghiêm cấm tuyên truyền, phổ biến phương pháp chọn lọc giới tính thai nhi dưới các hình thức; nghiêm cấm chẩn đoán giới tính thai nhi; nghiêm cấm loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính… đã được quy định rõ ràng, rằng việc lựa chọn giới tính thai nhi và nạo phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính là bất hợp pháp. Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế. Các giải pháp, hoạt động nhằm can thiệp giảm thiểu cân bằng giới tính khi sinh và nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành về giảm thiểu MCBGTKS đã được ban hành.

Riêng tại Tiền Giang, Sở Y tế trình Kế hoạch thực hiện Đề án Kiểm soát MCBGTKS giai đoạn 2016 - 2025 trên địa bàn tỉnh Tiền Giang, đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Công văn 249/KH-UBND ngày 8-11-2016. Mục tiêu tổng quát của Đề án là khống chế có hiệu quả tốc độ gia tăng TSGTKS trở lại mức cân bằng tự nhiên. Mục tiêu cụ thể là giảm tốc độ gia tăng TSGTKS, tạo cơ sở thuận lợi để đưa tỷ số này đạt dưới mức 115 bé trai/100 bé gái vào năm 2020, đạt 107 bé trai/100 bé gái sau năm 2025 và đưa TSGTKS về mức cân bằng tự nhiên (103 - 107 bé trai/100 bé gái).

* PV: Xin cảm ơn ông!

THỦY HÀ (thực hiện)

.
.
.