Thứ Hai, 07/01/2019, 13:41 (GMT+7)
.

Chuyện của 5 người lính trở về từ chiến trường K

Trong trái tim mỗi người dân Việt luôn có chỗ trang trọng để ghi nhớ và tôn vinh những người đã hy sinh xương máu cho đất nước, quê hương. 40 năm đã trôi qua, những người trở về từ chiến trường K vẫn còn mang niềm đau và nỗi nhớ nhung da diết. Ở TP. Mỹ Tho, có 5 thương binh trở về từ chiến trường K luôn sống trong mối tình đồng đội thủy chung và niềm khắc khoải về những đồng đội còn nằm lại trong lòng đất lạnh.

Anh Nguyễn Bá Tùng (đứng thứ 3 từ bên phải qua) họp mặt đồng đội Trung đoàn 10, Sư 339.
Anh Nguyễn Bá Tùng (đứng thứ 3 từ bên phải qua) họp mặt đồng đội Trung đoàn 10, Sư 339.

ĐỒNG ĐỘI

“Không cần hẹn, cứ đến ngày ấy là cả nhóm lại có mặt. Điểm danh đủ!” - kỹ sư xây dựng Nguyễn Bá Tùng, thương binh 4/4, ngụ khu phố 1, phường 6, TP. Mỹ Tho cho biết. Chiến tranh biên giới Tây Nam bùng nổ, bao lớp trai đã hiên ngang lên đường bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nền hòa bình, độc lập mà cha anh vừa mới giành lại được.

Trong những đoàn quân nối nhau ra tiền tuyến ngày ấy có không ít anh vừa rời áo thư sinh để khoác lên mình chiếc áo lính. Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu có phong trào học sinh tình nguyện nhập ngũ mạnh mẽ nhất tỉnh ngày ấy.

Tháng 1-1979, anh Tùng đang là học sinh lớp 12. Tinh thần “Thép đã tôi thế đấy” của Pavel đã thôi thúc anh và 6 người bạn cùng lớp viết đơn tình nguyện gia nhập quân ngũ khi chưa tròn 18 tuổi.

Anh Tùng kể: “Lúc đó học sinh được giáo dục và có lý tưởng lắm. Tôi chưa là đoàn viên nên viết chung lá đơn tình nguyện với Sơn và Út (bác sĩ Nguyễn Thành Úc), là 2 đoàn viên ưu tú của lớp. Khi qua chiến trường K, tôi và Sơn được điều về Trung đoàn 10, Sư 339. Vậy là, từ bạn đồng môn, chúng tôi trở thành đồng đội. Cùng đợt đó, đơn vị có hơn 100 bạn khác quê Tiền Giang, mỗi đứa có một hoàn cảnh. Vừa là đồng hương, vừa là đồng đội, chúng tôi thương nhau như anh em ruột rà. Sau mỗi lần hành quân di chuyển, đụng trận, chúng tôi lại tìm đến thăm nhau…”.

Kể đến đó, anh Tùng nghẹn lời. Anh Trần Văn Sinh, thương binh 2/4, ngụ khu phố 5, phường 6 nói tiếp: “Hơn 100 thằng, giải ngũ còn có 5 thằng, đều là thương binh, và trong số mấy đứa hy sinh, chỉ có 5 đứa đưa được hài cốt về nằm ở Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh thôi, số còn lại chưa tìm thấy. Mặt mũi, tính khí từng đứa và đứa nào hy sinh ra sao chúng tôi đều nhớ rõ. Thằng Nghề bị sốt rét nhưng vẫn bám giữ chốt, nó chống chọi với bệnh và chống trả địch suốt hơn chục ngày mới rút được. Về đến đơn vị, da nó đã vàng, người ốm tong teo, đi đứng không nổi nữa. Đang chờ đưa về tuyến sau điều trị thì nó mất. Mà nó chết mới đau chứ. Chính nó kêu y tá đến cứu 2 người bạn nằm kế bên đang lên cơn sốt rét ác tính. Khi cứu sống 2 đứa kia xong, y tá quay lại thì nó đã chết từ hồi nào rồi. Còn thằng Sơn, bạn thân nhất của thằng Tùng thì vướng phục kích, bị thương be bét mình mẩy và chết 2 ngày sau đó. Tùng cũng bị thương lần đó”.

“NHỚ DỮ LẮM ÔNG ƠI!”

Giải ngũ về, 5 thương binh trở về từ chiến trường K chia nhau đi đến những ngã rẽ của cuộc đời. Anh Sinh không biết chữ nên chỉ có thể đi làm thuê, chạy “xe ôm”. Anh Minh ở phường 2, làm thợ hồ. Anh Long ở phường 5, học nghề thợ hàn cửa sắt. Anh Hùng ở phường 1, học tiếp và làm giáo viên dạy cắt may. Còn anh Tùng thì học đại học kinh tế, sau đó học đại học Bách khoa, giờ là kỹ sư xây dựng. Mỗi người một nghề nghiệp, một hoàn cảnh sống riêng nhưng họ vẫn giữ được mối tình đồng đội thủy chung với nhau và với cả những người đã nằm xuống.

Mỗi lần kể về đồng đội, về những ngày cùng nhau sát cánh đấu tranh giữa sự sống và cái chết nơi chiến trường, họ hay buột miệng thốt lên “nhớ dữ lắm ông ơi!”. Vì tình thương và nỗi nhớ đó, 5 thương binh này đã đi tìm thân nhân của đồng đội để thăm hỏi, sẻ chia và để thắp nén nhang trước vong linh người đã khuất. Với họ, nỗi đau còn quặn thắt khi hài cốt của đồng đội còn nằm ở đâu đó. Cả 5 người lúc đó ai cũng khó khăn nên nhớ đồng đội, họ càng ray rứt trong tâm khi không thể đi tìm.

Anh Tùng chia sẻ: “Mỗi lần đến nhà thằng Sơn, nhìn cái chỗ mà suốt 6 năm hai đứa cùng chơi, cùng học, nay là nơi đặt bàn thờ của nó, tôi chịu không nổi. Tôi và người nhà của nó không ai biết tin tức gì về hài cốt của nó đang nằm ở đâu. Day dứt lắm. Mãi tới năm 2006, tôi mới biết hài cốt của nó đã được đưa về Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh. Cả nhóm kéo ra nghĩa trang viếng và phát hiện Thanh và Phước cùng nằm gần đó. Niềm vui hội ngộ không thể nào tả hết dù là hội ngộ với nấm mồ của người đã mất. Từ đó chúng tôi đặt ra thông lệ viếng Nghĩa trang Liệt sĩ tỉnh vào ngày 27-7. Đến năm 2007, tôi mới phát hiện mộ thằng Sơn cũng đã nằm ở nghĩa trang này 20 năm rồi. Tra lại danh sách mộ liệt sĩ, tôi phát hiện thêm Nghề cũng nằm ở đây và báo cho gia đình nó hay. Mấy năm nay có điều kiện hơn, chúng tôi chia nhau tìm thông tin khắp các nghĩa trang từ Tây Ninh tới Tịnh Biên (An Giang) nhưng chưa phát hiện thêm mộ của đứa nào nữa. Vậy là mới chỉ có 5 đứa về thôi!”.

Dù thời gian vật đổi sao dời, người còn, người mất, nhưng mối tình đồng đội của họ vẫn sống và tỏa sáng.

THỦY HÀ

.
.
.