UBND tỉnh phúc đáp bài báo "Đằng sau một phiên tòa bị hoãn"
Thực hiện kiến nghị của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tại Văn bản 367-BC/BTGTU ngày 7-10-2013 và qua xem xét hồ sơ có liên quan, ngày 11-11-2013 UBND tỉnh có Văn bản 5227/UBND-TD phúc đáp về việc Báo Ấp Bắc đăng 2 bài báo: “Một vụ cưỡng chế đất của dân đem cho thuê” và “Đằng sau một phiên tòa bị hoãn”. Nội dung như sau:
1. Về nội dung vụ việc
Năm 1985, các ngành chức năng của huyện Cai Lậy thỏa thuận bồi hoàn thành quả lao động cho bà Nguyễn Thị Tươi (bà Tươi là mẹ của ông Ngô Tấn Lâm) trên phần đất 4.000m2 tại ấp Bình Thanh, xã Tam Bình để xây dựng nhà máy sấy chuối và cơ sở ép dầu dừa xuất khẩu.
Ngoài ra, bà Tươi thống nhất nhượng thêm phần đất 10mx20m để nhà máy làm lối đi. Ngày 28-12-1985, ông Lâm đã nhận tiền bồi hoàn thành quả lao động trên phần 4.000m2 đất. Riêng tiền bồi hoàn thành quả lao động trên phần đường đi 200m2 chưa chi trả.
Năm 1995, ông Lâm tranh chấp, đòi lại 4.000m2 đất nêu trên và cất một nhà thô sơ ngay lối đi không cho xe ra vào vận chuyển hàng hóa.
Ngày 24-8-1995, UBND huyện Cai Lậy ra Quyết định 230/QĐ-UB giải quyết bác khiếu nại đòi lại đất của ông Ngô Tấn Lâm; giữ nguyên hiện trạng đất cho Công ty Xuất khẩu quản lý sử dụng.
Ngày 18-9-1996, UBND huyện Cai Lậy ra Quyết định 325/QĐ-UB buộc ông Ngô Tấn Lâm tháo dỡ nhà và hàng rào, trả lại lối đi cho Công ty Xuất khẩu (sau đó đổi tên thành Công ty Thương nghiệp).
Ngày 27-10-1997, UBND tỉnh ban hành Quyết định 2979/QĐ-UB, nội dung giải quyết: Chuẩn y Quyết định 230/QĐ-UB ngày 24-8-1995 của UBND huyện Cai Lậy; bổ sung Quyết định 325/QĐ.UB ngày 18-9-1996 của UBND huyện Cai Lậy theo hướng yêu cầu Công ty Thương nghiệp bồi thường thành quả lao động cho Ngô Tấn Lâm trên phần diện tích 200m2.
Ngày 28-10-1999, Thanh tra Tổng cục Địa chính (nay là Bộ Tài nguyên & Môi trường) có Công văn 89/CV.TT trả lời đơn ông Ngô Tấn Lâm như sau:
“Việc giải quyết khiếu nại của ông tại Quyết định 2979/QĐ.UB ngày 27-10-1997 của UBND tỉnh Tiền Giang là đúng pháp luật. Năm 1985, Nhà nước thu hồi 4.000m2 đất của gia đình ông đang sử dụng để làm nhà máy chế biến hoa quả, đã đền bù cho gia đình 12.000 đồng tiền thiệt hại hoa màu là phù hợp với quy định tại điểm c, khoản 3, phần V Quyết định 201/CP ngày 01-7-1980 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước…”.
Ngày 03-4-2001, UBND tỉnh có Văn bản 472/CV.UB, nội dung trả lời cho ông Ngô Tấn Lâm biết việc tranh chấp đất của ông đã được UBND tỉnh giải quyết tại Quyết định 2979/QĐ-UB ngày 27-10-1997 là phù hợp với quy định pháp luật; ông Ngô Tấn Lâm khiếu nại quyết định nhưng không đưa ra chứng cứ hay tình tiết có thể làm thay đổi nội dung quyết định.
Ngày 18-4-2007, UBND tỉnh ban hành Công văn 2104/UBND-NC, nội dung trả lời không thụ lý giải quyết việc ông Ngô Tấn Lâm khiếu nại Quyết định 2979/QĐ-UB ngày 27-10-1997. Cùng ngày 18-4-2007, UBND tỉnh ban hành Công văn 2105/UBND-NC, nội dung chỉ đạo thực hiện bồi thường thành quả lao động cho ông Ngô Tấn Lâm với diện tích 200m2 theo đúng quyết định giải quyết; đồng thời chỉ đạo giải quyết thoái thu khoản tiền thuế sử dụng đất trên phần diện tích 4.000m2 mà gia đình ông Ngô Tấn Lâm đã nộp từ năm 1985 đến năm 1998.
Năm 2011, ông Ngô Tấn Lâm khởi kiện Quyết định 2979/QĐ-UB ngày 27-10-1997 của UBND tỉnh. Ngày 31-10-2011 Tòa án nhân dân tỉnh có Văn bản 02/2011/TBTL, nội dung thông báo thụ lý vụ án hành chính theo đơn khởi kiện của ông Ngô Tấn Lâm và yêu cầu UBND tỉnh cung cấp tài liệu, căn cứ ban hành quyết định bị khởi kiện; đồng thời có văn bản nêu quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Tấn Lâm. Theo yêu cầu của tòa án, ngày 11-11-2011 UBND tỉnh có Văn bản 5414/UBND-TD gửi tòa án để nêu quan điểm của UBND tỉnh.
Ngày 19-8-2013, UBND tỉnh có Văn bản 3661/UBND-TD đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh tạm đình chỉ giải quyết vụ án khởi kiện của ông Ngô Tấn Lâm. UBND tỉnh sẽ điều chỉnh Quyết định 2979/QĐ-UB ngày 27-10-1997.
2. Những tình tiết bài báo đăng
a. Bài báo nêu “Công văn 472 và Công văn 2104 là trái với quy định của Luật Khiếu nại…”. Nội dung nêu trên là không phù hợp, bởi vì:
Luật Khiếu nại có hiệu lực năm 2012, còn 2 văn bản trên của UBND tỉnh ban hành năm 2001 và năm 2007, tức là văn bản ban hành trước khi Luật Khiếu nại có hiệu lực, nên không thể quy kết văn bản trái với luật. Mặt khác, việc ông Ngô Tấn Lâm đòi lại đất đã được giải quyết bằng quyết định của huyện và quyết định của tỉnh. Khi ông Lâm tiếp tục khiếu nại thì UBND tỉnh có văn bản trả lời, không ban hành quyết định giải quyết là phù hợp.
b. Bài báo nêu UBND tỉnh áp dụng Công văn 89/CV.TTr ngày 28-10-1999 của Thanh tra Tổng cục Địa chính để bác đơn khiếu nại của ông Lâm là không đúng quy định của pháp luật. Nhận định này là không đúng, bởi vì:
UBND tỉnh không căn cứ Văn bản của Thanh tra Tổng cục Địa chính để bác đơn khiếu nại của ông Lâm.
Thực tế, nội dung đơn của ông Lâm đã được giải quyết bằng quyết định của huyện và quyết định của tỉnh. Sau đó, Thanh tra Tổng cục Địa chính mới có văn bản trả lời cho ông Lâm. Văn bản của Thanh tra Tổng cục Địa chính không phải là quyết định giải quyết khiếu nại của ông Lâm, mà chỉ trả lời cho ông Lâm biết khiếu nại của ông đã được giải quyết có đúng pháp luật hay không.
Văn bản của UBND tỉnh trả lời cho ông Lâm viện dẫn Văn bản 89/CV.TTr ngày 28-10-1999 của Thanh tra Tổng cục Địa chính là để chứng minh cơ quan quản lý đất đai của Trung ương đã xác định UBND tỉnh quyết định giải quyết đơn của ông Lâm đúng pháp luật.
c. Bài báo nêu “Mặc dù văn bản không có tiêu đề nhưng được ghi số 5414/UBND-TD…”. Nội dung trên là không đúng, bởi vì:
Việc thẩm định và phát hành Văn bản 5414/UBND-TD ngày 11-11-2011 của UBND tỉnh đã được Văn phòng UBND tỉnh thực hiện theo đúng quy định về thể thức văn bản. Việc báo nêu văn bản không có tiêu đề là hoàn toàn không đúng thực tế.
d. Bài báo nêu Văn bản 5414/UBND-TD của UBND tỉnh do ông Dương Minh Điều ấn ký là không khách quan do ông Dương Minh Điều là người có liên quan đến vụ việc trên và ông Dương Minh Điều chưa được Chủ tịch UBND tỉnh ủy quyền. Nhận định trên chưa đúng vì:
Thời điểm ký Văn bản 5414/UBND-TD thì ông Dương Minh Điều là Phó Chủ tịch UBND tỉnh. Theo quy chế làm việc của UBND tỉnh thì ông Dương Minh Điều được Chủ tịch UBND tỉnh phân công là Phó Chủ tịch Thường trực, được Chủ tịch ủy quyền thay mặt Chủ tịch ấn ký các văn bản trong lĩnh vực phụ trách. Do đó ông Dương Minh Điều ấn ký Văn bản 5414/UBND-TD là đúng quy định.
e. Bài báo nêu Văn bản 5414/UBND-TD đã gây áp lực cho Hội đồng xét xử. Nhận định trên là không đúng, bởi vì:
Văn bản 5414/UBND-TD của UBND tỉnh nêu quan điểm của UBND tỉnh với tư cách của bị đơn trong vụ án; văn bản này là do Tòa án nhân dân tỉnh yêu cầu tại Thông báo 02/2011/TBTL của Tòa án nhân dân tỉnh. UBND tỉnh phải thực hiện theo đúng quy trình xét xử của một vụ án hành chính. Nếu cho rằng UBND tỉnh nêu quan điểm của mình để gây áp lực cho Hội đồng xét xử là chưa hiểu rõ về thủ tục tố tụng hành chính.
Hiện tại, ông Ngô Tấn Lâm đã khởi kiện quyết định hành chính của UBND tỉnh, vụ việc đã được Tòa án nhân dân tỉnh thụ lý. Mặt khác, sau khi xem xét toàn bộ nội dung vụ việc, UBND tỉnh đã có Văn bản 3661/UBND-TD ngày 13-8-2013 đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh tạm đình chỉ giải quyết vụ án khởi kiện của ông Ngô Tân Lâm để UBND tỉnh xem xét, điều chỉnh một phần nội dung Quyết định 2979/QĐ-UB ngày 27-10-1997. Khi có văn bản chính thức của Tòa án, UBND tỉnh sẽ thực hiện các bước tiếp theo.