Kết quả giải quyết đơn (thư) khiếu nại của công dân
Trường hợp của ông Lê Văn Nam (khu 1, thị trấn Cai Lậy, huyện Cai Lậy)
Ông Nam khiếu nại nhà, đất của gia đình bị giải tỏa trắng để xây khu thương mại. Ông xin mua nền nhà tái định cư không được xem xét, giải quyết.
Căn cứ Biên bản 26/BB-UBND ngày 26-3-2013 của UBND tỉnh và Thanh tra Chính phủ thống nhất phương án giải quyết khiếu nại của ông Lê Văn Nam với nhận định vụ việc như sau:
Ông Lê Văn Nam có 2 thửa đất, với tổng diện tích 555,5m2, tọa lạc tại khu 1, thị trấn Cai Lậy; trên đất có nhà ở, đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng năm 2003. Năm 2006, thực hiện Dự án Khu Thương mại, UBND huyện Cai Lậy ban hành Quyết định 1948/QĐ-UB (ngày 12-5-2006) thu hồi đất của ông Lê Văn Nam, diện tích đo thực tế 591,5m2 (giải tỏa trắng), với tổng số tiền được bồi thường gồm: đất đai, cây cối, hoa màu, vật kiến trúc… bị ảnh hưởng là 191.775.960 đồng.
Theo phương án bồi thường, hỗ trợ tái định cư ngày 21-3-2006 thì tiêu chuẩn hộ ông Nam được hoán đổi 1 nền nhà tái định cư. Ông Nam không đồng ý với phương án bố trí tái định cư, mà yêu cầu bán cho ông 1 nền nhà tái định cư (theo Biên bản ngày 14-8-2003) và hoán đổi thêm 1 nền nhà tái định cư tại chỗ liền kề cho mẹ ông.
Ngày 20-11-2009, UBND huyện Cai Lậy ra Quyết định 6013/QĐ-UBND bác đơn yêu cầu của ông Nam. Ngày 30-3-2010, UBND tỉnh ban hành Quyết định 1095/QĐ-UBND tiếp tục bác đơn khiếu nại của ông Lê Văn Nam, giữ nguyên Quyết định 6013/QĐ-UBND của UBND huyện Cai Lậy.
Việc ông Lê Văn Nam yêu cầu bán cho ông 1 nền nhà tái định cư là cần thiết phải xem lại. Bởi vì, theo Biên bản làm việc ngày 14-8-2003, đại diện Hội đồng Bồi thường và ông Nam đã đi đến thống nhất bán thêm cho ông 1 nền nhà theo giá kế của hộ nghèo.
Mặt khác, tại Tờ trình 299/TTr-UBND ngày 29-6-2009, UBND huyện Cai Lậy cũng đã đề nghị cho phép bán cho hộ ông Lê Văn Nam 1 nền nhà tái định cư, với lý do hộ ông Nam sau khi chấp hành giải tỏa có khó khăn về kinh tế.
Việc ông Nam yêu cầu hoán đổi thêm 1 nền nhà tái định cư tại chỗ liền kề cho mẹ ông là không có cơ sở giải quyết. Bởi vì, diện tích 120m2 (ông cho mẹ ông) đã được bồi thường đầy đủ trong tổng diện tích 591,5m2 bị giải tỏa, thu hồi.
Hơn nữa, theo phương án được duyệt thì những trường hợp chia tách, chuyển nhượng phải được chính quyền cấp xã, thị trấn xác nhận thì mới đủ căn cứ pháp lý để hoán đổi nền nhà. Trường hợp ông Nam lập “Tờ cho đất” cho mẹ là bà Ngô Thị Chi là chưa đủ điều kiện để được hoán đổi nền nhà.
Bởi các lẽ trên, ngày 24-4-2013 ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 937/QĐ-UBND điều chỉnh, bổ sung một phần nội dung Quyết định 1095/QĐ-UBND ngày 30-3-2010 của UBND tỉnh.
Cụ thể là: “UBND huyện Cai Lậy giải quyết cho ông Lê Văn Nam được mua 1 nền tái định cư theo giá quy định của UBND tỉnh”. Các nội dung còn lại trong Quyết định 1095/QĐ-UBND ngày 30-3-2010 của UBND tỉnh được giữ nguyên. Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
Trường hợp của bà Nguyễn Thị Nhân (Đồng Thạnh, Gò Công Tây)
Bà Nhân (con của ông Nguyễn Văn Xuân) khiếu nại: Đất gốc của gia đình trực canh trước năm 1975. Trong thời kỳ hợp tác hóa, Nhà nước trưng dụng một phần đất làm dịch vụ và một phần bị bà Nguyễn Thị Bảy chiếm dụng chưa được xem xét, giải quyết thỏa đáng.
Xét đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Nhân, xét Báo cáo 169/BC-TCT của Tổ Công tác 2866 và đối thoại trực tiếp của UBND tỉnh, kết luận giải quyết vụ việc như sau:
Trường hợp HTX trưng dụng 260m2 đất (năm 1987) làm cửa hàng giải khát: Thực tế chỉ trưng dụng 150m2. Năm 1989, HTX cho bà Phạm Thị Bạch thuê lại. Năm 1991, ông Xuân khiếu nại, được HTX giải quyết giao trả đất và bán hóa giá vật kiến trúc trên đất với số tiền 685.000 đồng. Bà Bạch khiếu nại và UBND huyện Gò Công Tây có Quyết định 227/QĐ-UB ngày 26-6-1998 chia đôi diện tích đất tranh chấp.
Ngày 30-12-1999, UBND tỉnh ban hành Quyết định 4009/QĐ-UB hủy Quyết định 227/QĐ-UB của UBND huyện Gò Công Tây; giữ nguyên 260m2 đất cho ông Xuân quản lý, sử dụng. Khi triển khai quyết định thì phát hiện trên phần đất này có bà Nguyễn Thị Bảy (em ông Xuân) đang sử dụng diện tích 106,18m2 và được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ vào năm 1996.
Giải quyết tranh chấp 106,18m2 với bà Nguyễn Thị Bảy: Xét việc bà Nguyễn Thị Bảy được UBND huyện Gò Công Tây cấp Giấy chứng nhận QSDĐ trong thời điểm đất đang tranh chấp là không đúng theo quy định của Luật Đất đai. Bà Bảy không có giấy tờ gì chứng minh được gia đình giao cho diện tích đất này, không đăng ký kê khai đất và không có tên trong sổ bộ địa chính.
Trong khi đó, ông Xuân quản lý, sử dụng đất từ năm 1970, có kê khai, đứng bộ và đăng ký đất đai theo Chỉ thị 299/TTg ngày 10-11-1980 của Thủ tướng Chính phủ. Bởi các lẽ trên, ngày 13-2-2012, UBND tỉnh có Văn bản 415/UBND-TD, điều chỉnh Quyết định 372/QĐ-UBND ngày 8-2-2001 theo hướng:
Thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ 106,18m2 đã cấp cho bà Nguyễn Thị Bảy; giao 106,18m2 cho ông Nguyễn Văn Xuân quản lý, sử dụng. Đối với tài sản của bà Bảy trên đất: Giao Chủ tịch UBND huyện tổ chức cho các bên thương lượng; nếu hộ bà Bảy có khó khăn thì xuất ngân sách của địa phương để hỗ trợ bà Bảy di dời.
Tuy nhiên, do khiếu nại của bà Nhân có 2 văn bản của Thanh tra Chính phủ kết luận trái ngược nhau, nên UBND tỉnh báo cáo xin ý kiến. Ngày 24-4-2013, UBND tỉnh ban hành Quyết định 933/QĐ-UBND giải quyết theo phương án thống nhất với Thanh tra Chính phủ:
Tài sản trên đất tranh chấp do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì khởi kiện tại tòa án. Tuy nhiên, để giải quyết dứt điểm trường hợp khiếu nại kéo dài, Chủ tịch UBND tỉnh thống nhất kết luận: Xuất ngân sách để hỗ trợ cho hộ bà Nguyễn Thị Bảy di dời.
Ngày 25-6-2013, ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định 1510/QĐ-UBND về việc điều chỉnh một phần nội dung Điều 1, Quyết định 933/QĐ-UBND ngày 24-4-2013 của UBND tỉnh, cụ thể là:
Đoạn “Tài sản trên diện tích 106,18m2 đất do ông Nguyễn Văn Xuân và bà Nguyễn Thị Bảy tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì khởi kiện tại TAND huyện Gò Công Tây”, được điều chỉnh thành “Tài sản trên diện tích 106,18m2 đất tranh chấp, UBND huyện xuất ngân sách để hỗ trợ cho bà Nguyễn Thị Bảy di dời”. Các nội dung còn lại trong Quyết định 933/QĐ-UBND ngày 24-4-2013 của UBND tỉnh được giữ nguyên. Quyết định có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký.
TỔ CTBĐ