Kết quả giải quyết đơn (thư) khiếu nại của công dân
Trường hợp của bà Nguyễn Thị Thê (Long Bình, Yên Luông, Gò Công Tây)
Bà Thê khiếu nại xin lại phần đất gốc đã được cấp khoán cho người khác thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp.
Tổ Công tác 2866 của UBND tỉnh thẩm tra, xác minh, thống nhất nhận định nội vụ khiếu nại của bà Thê như sau:
Trong chiến tranh, cách mạng cấp cho bà Nguyễn Thị Kiếm (chị ruột bà Thê) 93 sào (9.300m2) đất ruộng. Sau năm 1975, bà Thê đứng tên kê khai toàn bộ số đất này (đo đạc thực tế còn 9.000m2). Năm 1978, chính quyền cắt 30 sào chia cho 2 hộ khác canh tác, bà Thê còn lại 60 sào. Năm 1979, bà Thê đưa 60 sào đất vào hợp tác xã và được nhận lại 10 sào để làm kinh tế phụ (vì lúc này hộ bà Thê có 2 nhân khẩu, con còn nhỏ, bản thân bà đang công tác tại UBND huyện Gò Công Tây).
Phần 50 sào còn lại được chính quyền chia cho 2 hộ khác sử dụng. Năm 1984, bà Thê xin nhận ruộng khoán nên hợp tác xã giao lại cho bà 50 sào đất gốc; đồng thời được HTX điều khoán thêm 850m2 đất thổ - màu của người khác. Như vậy, tại thời điểm này, bà Thê đã quản lý, canh tác 6.850/9.000m2 đất gốc của bà kê khai sau năm 1975.
Năm 1990 - 1991, thực hiện Kế hoạch 16 và Chỉ thị 02 của Huyện ủy Gò Công Tây, chính quyền xã Yên Luông tiếp tục giao thêm cho bà Thê 1.800m2/3.000m2 (đất cắt năm 1978); còn lại 1.200m2 chính quyền xã giữ lại làm quỹ đất; sau đó cấp cho bà Nguyễn Thị Thu Cúc (hộ không đất) quản lý, sử dụng và được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ năm 1991.
Năm 1992, bà Thê tự chiếm và canh tác phần 1.200m2 đất đã cấp cho bà Cúc, bị TAND huyện Gò Công Tây đưa ra xét xử phạt 12 tháng tù giam và buộc giao lại quyền sử dụng ruộng đất cho bà Cúc, nhưng bà Thê vẫn tiếp tục tranh chiếm phần đất trên. Chính quyền xã Yên Luông đã đổi phần đất khác cho bà Cúc và giữ lại 1.200m2 đất này cho du kích canh tác.
Đến năm 1994, UBND xã giao 1.200m2 đất này cho ông Trần Hữu Khôi canh tác (ông Khôi là bộ đội phục viên). Trong quá trình canh tác, ông Khôi bị bà Thê tranh chấp gay gắt và do không có đường dẫn nước để sản xuất nên từ năm 1998 ông Khôi cho người khác thuê. Từ năm 2009 đến nay, bà Thê tái chiếm sử dụng, diện tích đo đạc thực tế là 867m2.
Nội vụ tranh chấp đất của bà Nguyễn Thị Thê được các ngành chức năng tỉnh, huyện nhiều lần giải quyết, nêu rõ: Hầu hết diện tích đất gốc của bà Thê đưa vào HTX đều được giao lại cho bà sử dụng, chỉ còn thiếu 17m2 đất; song bà Thê vẫn tiếp tục đòi quyền sử dụng 867m2 đất mà chính quyền đã giao cho người khác sử dụng là hoàn toàn không có cơ sở giải quyết.
Quyết định 1899/QĐ-UB ngày 10-6-2002 của UBND tỉnh giải quyết khiếu nại của bà là đúng chính sách pháp luật. Quyết định này là quyết định giải quyết cuối cùng có hiệu lực pháp luật, mọi cá nhân và cơ quan tổ chức có liên quan đều phải chấp hành và chấm dứt khiếu nại.
Về phần diện tích 867m2 đất (nêu trên) của ông Trần Hữu Khôi được UBND xã Yên Luông giao sử dụng, nhưng ông Khôi không còn trực tiếp canh tác. Vả lại, phần đất này bà Thê đã sử dụng từ năm 2009 đến nay. Về phía ông Khôi (qua làm việc trực tiếp với Tổ Công tác 2866 vào ngày 22-6-2011), ông không tranh chấp và cũng không có nguyện vọng xin lại đất.
Xét gia đình bà Thê là gia đình chính sách, ngày 5-6-2013 UBND tỉnh ban hành Quyết định 1512/QĐ-UBND giao Chủ tịch UBND huyện Gò Công Tây chỉ đạo các ngành chức năng lập thủ tục xét cấp Giấy chứng nhận QSDĐ phần đất trên cho bà Nguyễn Thị Thê.
Trường hợp của bà Nguyễn Thị Thu (ngụ khu 7, thị trấn Cai Lậy, huyện Cai Lậy)
Bà Thu khiếu nại đất ở thị trấn bị giải tỏa nâng cấp, mở rộng QL IA bồi thường theo giá đất nông nghiệp là chưa thỏa đáng.
Biên bản 08/BB-UBND ngày 20-8-2012 của UBND tỉnh và Thanh tra Chính phủ thống nhất phương án giải quyết vụ khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thu với nhận định:
Gia đình bà Thu đã sử dụng đất, cất nhà ở ổn định trước năm 1975 cho đến nay trên diện tích là 461,2m2, loại đất ở và trồng cây lâu năm, nhưng chưa cấp Giấy chứng nhận QSDĐ.
Năm 2005, thực hiện Dự án mở rộng, nâng cấp QL IA, UBND huyện Cai Lậy ra Quyết định 7361/QĐ-UBND ngày 31-12-2005 thu hồi 120,7m2 đất của bà Thu (áp giá bồi thường theo loại đất nông nghiệp); đồng thời hỗ trợ thêm đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư cùng với các công trình khác bị ảnh hưởng, với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ là 156.745.500 đồng.
Bà Thu nhận tiền nhưng tiếp tục khiếu nại, yêu cầu phải được bồi thường toàn bộ diện tích theo loại đất ở. Ngày 15-1-2009, UBND huyện Cai Lậy ban hành Quyết định 135/QĐ-UBND bác đơn khiếu nại của bà Thu và được UBND tỉnh chuẩn y bằng Quyết định 1375/QĐ-UBND ngày 21-4-2009 không chấp nhận yêu cầu của bà Thu đòi bồi thường theo giá đất ở (2.000.000 đồng/m2).
Xét thấy việc bồi thường theo giá đất nông nghiệp và hỗ trợ từ 30% đến 50% giá đất ở liền kề là chưa phù hợp với Điều 84 và 87, Luật Đất đai năm 2003; Khoản 2, Điều 45, Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai; Thông tư 116/2004/TT-BTC ngày 7-12-2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 24-4-2013, ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh đã ký ban hành Quyết định 936/QĐ-UBND thu hồi, hủy bỏ Quyết định 135/QĐ-UBND ngày 15-1-2009 của UBND huyện Cai Lậy và Quyết định 1375/QĐ-UBND ngày 21-4-2009 của UBND tỉnh Tiền Giang.
Chấp nhận nội dung đơn khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thu về yêu cầu bồi thường 120,7m2 theo giá đất ở. Giao UBND huyện Cai Lậy tính toán, lập các thủ tục bồi thường cho hộ bà Nguyễn Thị Thu và quyết toán kinh phí theo quy định của pháp luật. Giao Chánh Thanh tra tỉnh tổ chức triển khai và kiểm tra việc thực hiện Quyết định này.
TỔ CTBĐ