Thứ Hai, 16/03/2015, 15:17 (GMT+7)
.

Chủ tịch UBND tỉnh tiếp xúc, giải quyết các trường hợp khiếu nại của dân

Sáng 12-3, tại Hội trường Công an tỉnh, ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh cùng các ngành có liên quan tổ chức cuộc tiếp xúc, trao đổi và giải quyết 13 trường hợp người dân khiếu nại bồi thường giải tỏa để xây dựng Dự án nâng cấp, mở rộng QL1A năm 2005, thuộc địa bàn TX. Cai Lậy. Mặc dù những vụ việc khiếu kiện này đã được các ngành, các cấp, địa phương giải quyết nhiều lần nhưng bà con cho rằng vẫn chưa thỏa đáng.

Ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh kết luận giải quyết  khiếu nại đối với 13 hộ dân  thuộc địa bàn TX. Cai Lậy.
Ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh kết luận giải quyết khiếu nại đối với 13 hộ dân thuộc địa bàn TX. Cai Lậy.

Qua thẩm tra, xác minh và báo cáo của Tổ Công tác 1966 cho thấy, 13 trường hợp khiếu nại của người dân là có cơ sở. Bởi đất nằm trong quyền sử dụng của người dân bị ảnh hưởng bởi Dự án khôi phục, nâng cấp, mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường và cần phải bồi thường bổ sung diện tích đất bị thu hồi trước đây với giá đất ở theo Quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2014, được ban hành kèm theo Quyết định 52/2013/QĐ-UBND ngày 20-12-2013 của UBND tỉnh.

Cụ thể, trường hợp của bà Nguyễn Thị Thủy (ngụ số 2/3, khu phố 1, phường 4, TX. Cai Lậy) khiếu nại yêu cầu bồi thường phần diện tích 56,9 m2 đất bị ảnh hưởng bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường là có cơ sở.

Vì căn cứ vào biên bản kiểm kê ngày 9-12-2004 của Hội đồng Bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB) huyện Cai Lậy, kèm theo hồ sơ kỹ thuật thửa đất thể hiện phần đất bà Thủy bị ảnh hưởng có diện tích 56,9 m2 nằm trong quyền sử dụng đất của bà Thủy và cùng một thửa đất gắn với nhà ở hình thành trước ngày 18-12-1980, nhưng Hội đồng Bồi thường GPMB chưa áp giá bồi thường cho bà Thủy.

Do đó, nay Hội đồng Bồi thường giải quyết bồi thường cho bà Thủy diện tích 56,9 m2 với giá đất ở nông thôn, mức giá 1.400.000 đồng/m2, thành tiền là 79.660.000 đồng theo Quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2014.

Bà Thủy còn được Tổ Công tác đề nghị bồi thường bổ sung diện tích 84,9 m2 đất do bị thu hồi bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 (theo giá đất ở), bởi vì phần đất của bà Thủy có nhà ở từ trước năm 1975 và sử dụng ổn định đến nay.

Khi thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng QL1A năm 2005, UBND huyện Cai Lậy ra quyết định thu hồi của hộ bà Thủy phần đất có diện tích 84,9 m2, nhưng Hội đồng Bồi thường GPMB chỉ bồi thường cho bà Thủy với giá đất nông nghiệp và hỗ trợ 20% giá đất ở liền kề là chưa đúng quy định của pháp luật.

Do đó, Hội đồng Bồi thường giải quyết bồi thường bổ sung cho bà Thủy diện tích 84,9 m2 với giá đất ở nông thôn, mức giá 1.400.000 đồng/m2, thành tiền 118.860.000 đồng theo quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2014.

Bên cạnh đó, diện tích 267,15 m2 đất bị ảnh hưởng do khôi phục QL1A (năm 1994) sẽ được bảo lưu trong diện tích đất ở cho gia đình bà Thủy.

Đối với trường hợp của bà Trịnh Thị Tro (ngụ số 25/3B, khu phố 3, phường 2, TX. Cai Lậy) khiếu nại: Bị ảnh hưởng diện tích 109 m2 đất do mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường và 334,4 m2 đất bị thu hồi nhưng bồi thường chưa đúng giá đất ở.

Kết quả xác minh của Tổ Công tác 1966 cho thấy, yêu cầu bồi thường phần diện tích 109 m2 đất bị ảnh hưởng Dự án mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường là có cơ sở, Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường diện tích 109 m2 với giá đất ở đô thị mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 359.700.000 đồng;

Đồng thời bồi thường bổ sung diện tích 334,4 m2 đất bị thu hồi bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 là giá đất ở với giá đất ở đô thị mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 1.103.520.000 đồng, nhưng phải trừ lại số tiền bà Tro đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định. Số diện tích bị ảnh hưởng do khôi phục QL1A năm 1994 của gia đình bà Tro cũng được bảo lưu vào diện tích đất ở.

Trường hợp của hộ bà Trần Hữu Kim Thanh (ngụ số 18/3B, khu phố 3, phường 2, TX. Cai Lậy) khiếu nại yêu cầu bồi thường phần diện tích 30,9 m2 đất bị ảnh hưởng bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường và yêu cầu bồi thường bổ sung diện tích 46,9 m2 do bị thu hồi (đất nằm trong quyền sử dụng của gia đình) theo giá đất ở là có cơ sở.

Vì căn cứ vào biên bản kiểm kê ngày 21-12-2004 của Hội đồng Bồi thường GPMB huyện Cai Lậy kèm theo hồ sơ kỹ thuật thửa đất thể hiện phần đất bà Thanh bị ảnh hưởng diện tích 30,9 m2.

Phần đất này nằm trong quyền sử dụng đất của bà Thanh và cùng một thửa đất gắn với nhà ở hình thành trước ngày 18-12-1980, nhưng Hội đồng Bồi thường GPMB chưa áp giá bồi thường cho bà Thanh. Do đó, Hội đồng Bồi thường giải quyết bồi thường cho bà Thanh diện tích 30,9 m2 với giá đất ở đô thị mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 101.970.000 đồng theo quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2014.

Đối với phần diện tích 46,9 m2 đất do bị thu hồi bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 của bà Thanh bị ảnh hưởng có nhà ở từ trước năm 1975 và sử dụng ổn định đến nay, thuộc khu dân cư được hình thành và sử dụng trước ngày 18-12-1980.

Khi thực hiện Dự án nâng cấp, mở rộng QL1A năm 2005, UBND huyện Cai Lậy thu hồi của hộ bà Thanh phần đất có diện tích 46,9 m2, Hội đồng Bồi thường đã bồi thường cho bà giá đất nông nghiệp và hỗ trợ 50% giá đất ở đối với đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư là chưa đúng quy định của pháp luật.

Do đó Hội đồng Bồi thường giải quyết bồi thường bổ sung cho bà Thanh diện tích 46,9 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 154.770.000 đồng theo quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2014 là đúng theo quy định của pháp luật, nhưng phải trừ lại số tiền bà Thanh đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.

Trường hợp của hộ bà Âu Ngọc Yến (ngụ số 1/17B, khu phố 1, phường 4, TX. Cai Lậy) được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho bà Yến diện tích 12,4 m2 đất bị ảnh hưởng chưa được bồi thường với giá đất ở đô thị mức giá 6.000.000 đồng/m2, thành tiền 74.400.000 đồng và bồi thường bổ sung diện tích 32,4 m2 đất do bị thu hồi bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 với giá đất ở đô thị mức giá 6.000.000 đồng/m2, thành tiền 194.400.000 đồng nhưng phải trừ lại số tiền bà Yến đã nhận bồi thường trước đây.

Trường hợp của hộ ông Ngô Văn Bé (ngụ số 93/2, khu phố 2, phường 2, TX. Cai Lậy) được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho ông Bé diện tích 22,3 m2 (trước đây chưa bồi thường) với giá đất ở đô thị mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 73.590.000 đồng và bồi thường bổ sung diện tích 51,5 m2 do bị thu hồi bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 với giá đất ở đô thị, thành tiền 169.950.000 đồng theo giá đất năm 2014, nhưng phải trừ lại số tiền ông Bé đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.

Trường hợp của hộ ông Trần Thanh Đang (ngụ số 156/2, khu phố 3, phường 2, TX. Cai Lậy) bị ảnh hưởng diện tích 15,2 m2 đất (chưa được bồi thường) được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường với giá đất ở đô thị mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 50.160.000 đồng và bồi thường bổ sung diện tích 16,4 m2 đất bị thu hồi với giá đất ở đô thị mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 54.120.000 đồng (theo giá đất năm 2014), nhưng phải trừ lại số tiền ông Đang đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.

Các trường hợp người dân ở xã ven thuộc địa bàn TX. Cai Lậy như hộ bà Trần Thị Bé Sang (ấp Quý Trinh, xã Nhị Quý) bị ảnh hưởng diện tích 76,4 m2 (chưa được bồi thường), được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho bà Sang với giá đất ở nông thôn mức giá 1.400.000 đồng/m2, thành tiền 106.960.000 đồng;

Đồng thời bồi thường bổ sung diện tích 132,2 m2 đất bị thu hồi với giá đất ở nông thôn, thành tiền 185.080.000 đồng theo giá đất năm 2014. Hộ ông Trần Văn Hận (ngụ ấp Quý Phước, xã Nhị Quý) khiếu nại yêu cầu bồi thường phần diện tích 97 m2 đất bị ảnh hưởng Dự án mở rộng QL1A năm 2005 nằm trong quyền sử dụng đất (chưa được bồi thường theo giá đất ở), được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho ông Hận với giá đất ở nông thôn, mức giá 1.400.000 đồng/m2, thành tiền 135.800.000 đồng; đồng thời bồi thường bổ sung diện tích 174,2 m2 đất bị thu hồi với giá đất ở nông thôn thành tiền 243.880.000 đồng theo giá đất năm 2014.

Hộ bà Trần Thị Dót (ngụ ấp Thanh Sơn, xã Thanh Hòa) bị ảnh hưởng diện tích 55,3 m2 đất (chưa được bồi thường), được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho bà Dót với giá đất ở nông thôn, mức giá 1.800.000 đồng/m2, thành tiền 99.540.000 đồng và bồi thường bổ sung diện tích 173,8 m2 đất bị thu hồi với giá đất ở nông thôn mức giá 1.800.000 đồng/m2, thành tiền 312.840.000 đồng, nhưng các trường hợp này cũng phải trừ lại số tiền đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.

Sau hơn 1 buổi làm việc, ông Nguyễn Văn Khang kết luận: Thống nhất đề xuất của Tổ Công tác 1966 về việc giải quyết khiếu nại của 13 hộ dân nêu trên được bồi thường diện tích đất ở bị ảnh hưởng bởi Dự án nâng cấp, mở rộng QL1A trước đây chưa xem xét, giải quyết và bồi thường bổ sung phần diện tích đất trước đây đã bồi thường chưa đúng quy định (theo Quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2014, được ban hành kèm theo Quyết định 52/2013/QĐ-UBND ngày 20-12-2013 của UBND tỉnh Tiền Giang), nhưng phải trừ lại phần tiền bồi thường trước đây các hộ đã nhận và lệ phí trước bạ theo quy định). UBND tỉnh sẽ thu hồi các quyết định giải quyết bác đơn của bà con trước đây;

Đồng thời sẽ ban hành Quyết định mới để giải quyết. Đề nghị UBND TX. Cai Lậy tiến hành các thủ tục chi trả bồi thường bổ sung cho các hộ theo đề xuất của Tổ công tác; điều chỉnh lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của các hộ sau khi bồi thường bổ sung.

Tại buổi tiếp xúc và giải quyết, ông Nguyễn Văn Khang cũng giải thích và trả lời cho người dân rõ về giá đất của tỉnh quy định hàng năm để làm cơ sở cho người dân giao dịch và mức thuế phải nộp của người dân theo Thông tư 153 của Bộ Tài chính quy định thu ổn định (1 lần) là 5 năm.

TỔ CTBĐ

.
.
.