Chủ tịch UBND tỉnh:Giải quyết khiếu kiện của 11 hộ dân thuộc Dự án QL1
Ngày 16-4, tại Hội trường Công an tỉnh, ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh cùng các ngành có liên quan tổ chức cuộc tiếp xúc, trao đổi trực tiếp và giải quyết khiếu kiện việc giải tỏa, đền bù Dự án nâng cấp, mở rộng QLIA - năm 2005 của 11 hộ dân thuộc địa bàn TX. Cai Lậy.
Ông Lý Hữu Phước (phường 2, TX. Cai Lậy) thống nhất cách giải quyết và ký tên vào biên bản. |
Qua thẩm tra xác minh và báo cáo của Tổ Công tác 1966 cho thấy, 11 trường hợp khiếu nại của người dân là có cơ sở. Bởi đất nằm trong quyền sử dụng của người dân bị ảnh hưởng dự án trên chưa được bồi thường và cần phải bồi thường bổ sung diện tích đất bị thu hồi (trước đây) theo “Quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Tiền Giang năm 2014”, ban hành kèm theo Quyết định 52/2013/QĐ-UBND ngày 20-12-2013 của UBND tỉnh.
Về trường hợp của bà Nguyễn Thị Bi (ngụ số 13/577A, phường 5) được giải quyết bồi thường diện tích 27 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 6.000.000 đồng/m2, thành tiền 162.000.000 đồng.
Đối với phần diện tích 99,6 m2 của bà Bi bị ảnh hưởng (có nhà ở), được giải quyết bồi thường bổ sung 99,6 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 6.000.000 đồng/m2, thành tiền 597.600.000 đồng, nhưng phải trừ lại số tiền bà Bi đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.
Việc bà Bi khiếu nại về: Tranh chấp quyền sử dụng đất với gia đình bà Trương Thị Chúc (vợ ông Tuấn); đất bị giải tỏa thuộc Dự án khôi phục QL1A năm 1994; yêu cầu trả lại chi phí cưỡng chế, xử phạt hành chính, bị mất thu nhập từ việc kinh doanh 9 phòng trọ cũng như tiền thất thoát từ phòng khám, chữa bệnh trong thời gian bà đi khiếu nại và bị kỷ luật về mặt Đảng của bà Nguyễn Thị Bi không thuộc chức năng thẩm tra xác minh, đề xuất của Tổ Công tác 1966, bà nên liên hệ hoặc gởi đơn đến cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.
Đối với hộ ông Lý Hữu Phước (ngụ số 2/3H, khu phố 3, phường 2) Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường diện tích 69,2 m2 đất bị ảnh hưởng chưa được bồi thường (trong đó 54 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 178.200.000 đồng và bồi thường 15,2 m2 với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 2.432.000 đồng).
Ngoài ra, áp giá bồi thường bổ sung diện tích 196 m2 đất do bị thu hồi bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 646.800.000 đồng, nhưng phải trừ lại số tiền ông Phước đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.
Đối với hộ ông Phạm Đực Em (ngụ số 7/3A, khu phố 3, phường 2), Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường diện tích 101 m2 với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 16.160.000 đồng; đồng thời bồi thường bổ sung diện tích 168,5 m2 đất bị thu hồi với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 26.960.000 đồng.
Ngoài ra, Tổ Công tác còn đề xuất và được Chủ tịch UBND tỉnh thống nhất hỗ trợ 70% giá đất ở cho gia đình ông Đực Em trên tổng diện tích đền bù (nêu trên) theo Quyết định 15/QĐ.UB ngày 24-5-2013 của UBND tỉnh, vì đây là đất mặt tiền QL1A có giá trị sinh lợi cao…
Về trường hợp của bà Mai Thị Kim Dung (ngụ số 14/3, khu phố 3, phường 2), được giải quyết bồi thường diện tích 304,5 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 1.004.850.000 đồng và được bồi thường bổ sung diện tích 196 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 640.240.000 đồng, nhưng phải trừ lại số tiền bà Dung đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.
Về trường hợp của bà Ngô Kim Loan (ngụ số 158/2, khu phố 2, phường 2), được áp giá bồi thường bổ sung diện tích 418,4 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 1.380.720.000 đồng và được bồi thường phần diện tích 418,1 m2 đất bị ảnh hưởng Dự án mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường (trong đó bồi thường đất ở đô thị diện tích là 81,6 m2, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 269.280.000 đồng và bồi thường diện tích 336,5 m2 với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 53.840.000 đồng).
Ngoài ra, được tỉnh xem xét hỗ trợ bằng 30% - 70% giá đất ở đối với phần đất diện tích 336,5 m2, vì phần đất này nằm mặt tiền QL1A có sinh lợi cao, nhưng phải trừ lại số tiền bà Loan đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.
Đối với khiếu nại của ông Nguyễn Ngọc Chống (ngụ ấp Tân Phong, xã Tân Hội), được áp giá bồi thường diện tích 107,6 m2 với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 17.216.000 đồng và được xem xét hỗ trợ bằng 45% giá đất ở đối với phần đất diện tích 107,6 m2, vì phần đất này nằm mặt tiền QL1A có giá trị sinh lợi cao.
Về yêu cầu chi tiền hỗ trợ bổ sung phần diện tích 162,6 m2 đất bị thu hồi theo phương án 126 trước đây chưa nhận, Tổ Công tác đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường chi tiền bồi thường bổ sung cho ông Chống với số tiền 16.260.000 đồng.
Đối với trường hợp của ông Trần Minh Thức (ngụ ấp Quý Phước, xã Nhị Quý), Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường diện tích 83,4 m2 với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 13.344.000 đồng và xem xét hỗ trợ bằng 60% giá đất ở đối với phần đất diện tích 83,4 m2, vì phần đất này nằm mặt tiền QL1A có giá trị sinh lợi cao; đồng thời xem xét hỗ trợ an sinh xã hội cho hộ ông Thức theo thẩm quyền của UBND thị xã, phần nào vượt thẩm quyền thì xin ý kiến của UBND tỉnh.
Đối với khiếu nại của bà Trần Thị Sáu (ngụ ấp Quý Phước, xã Nhị Quý), được áp giá bồi thường diện tích 390,9 m2 với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 62.544.000 đồng và xem xét hỗ trợ phần đất có diện tích 390,9 m2, vì phần đất này nằm mặt tiền QL1A có vị trí sinh lợi cao.
Bà Sáu còn được hỗ trợ bổ sung phần diện tích 682,5 m2 đất bị thu hồi theo phương án 126 trước đây bà Sáu chưa nhận, với số tiền 68.250.000 đồng; đồng thời hỗ trợ bổ sung khả năng sinh lợi bằng 35% giá đất ở.
Đối với khiếu nại của bà Nguyễn Thị Mậu (ngụ ấp Quý Chánh, xã Nhị Quý), được áp giá bồi thường diện tích 107,2 m2 với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 17.152.000 đồng và xem xét hỗ trợ bằng 60% giá đất ở đối với phần đất diện tích 107,2 m2 của bà Mậu, vì phần đất này nằm mặt tiền QL1A có giá trị sinh lợi cao và hộ bà Mậu sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng Dự án tuyến tránh Cai Lậy.
Bà Mậu còn được hỗ trợ bổ sung phần diện tích 143,3 m2 đất bị thu hồi thực hiện theo phương án 126 trước đây chưa nhận, với số tiền 14.330.000 đồng.
Về trường hợp của bà Nguyễn Thị Xuân (ngụ số 21/30B, phường 4), do bà bệnh nặng nên Tổ Công tác 1966 và Chủ tịch UBND tỉnh sẽ có buổi làm việc riêng trong thời gian thích hợp.
Đối với trường hợp của ông Mai Văn Đèo (ngụ ấp Quý Thạnh, xã Tân Hội), do chưa thống nhất cách tính bồi thường, Chủ tịch UBND tỉnh đề nghị Tổ Công tác 1966 thẩm tra xác minh lại cụ thể, trình Chủ tịch UBND tỉnh kết luận sau.
TỔ CTBĐ