Giải quyết dứt điểm 6 hộ dân khiếu kiện liên quan đến dự án QL1A
Chiều 26-3, tại Hội trường Công an tỉnh, ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh cùng các ngành có liên quan tổ chức cuộc tiếp xúc, trao đổi trực tiếp và giải quyết dứt điểm đối với 6 hộ dân thuộc địa bàn TX. Cai Lậy khiếu kiện việc giải tỏa, đền bù Dự án nâng cấp, mở rộng QL1A năm 2005 chưa được đền bù và bồi thường bổ sung đất bị ảnh hưởng theo giá đất ở do Nhà nước quy định.
Ông Nguyễn Văn Khang, Chủ tịch UBND tỉnh kết luận giải quyết 6 trường hợp khiếu kiện. |
Qua thẩm tra, xác minh và báo cáo của Tổ Công tác 1966 cho thấy, 6 trường hợp khiếu nại của người dân là có cơ sở. Bởi đất nằm trong quyền sử dụng của người dân bị ảnh hưởng Dự án khôi phục, nâng cấp và mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường và cần phải bồi thường bổ sung diện tích đất bị thu hồi (trước đây) với giá đất ở theo Quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh năm 2014, ban hành kèm theo Quyết định 52/2013/QĐ-UBND ngày 20-12-2013 của UBND tỉnh.
Trường hợp của ông Nguyễn Văn Sinh (ngụ số 107/2, khu phố 7, phường 2, TX. Cai Lậy) khiếu nại yêu cầu bồi thường phần diện tích 26,8 m2 đất bị ảnh hưởng Dự án mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường và bồi thường bổ sung 51,8 m2 là có cơ sở.
Bởi vì, căn cứ vào Biên bản kiểm kê ngày 9-12-2004 của Hội đồng Bồi thường giải phóng mặt bằng (GPMB) huyện Cai Lậy kèm theo Hồ sơ kỹ thuật thửa đất thể hiện phần đất ông Sinh bị ảnh hưởng diện tích 26,8 m2 nằm trong quyền sử dụng đất của ông Sinh và cùng một thửa đất gắn liền với nhà ở hình thành trước ngày 18-12-1980, nhưng Hội đồng Bồi thường GPMB chưa áp giá bồi thường cho ông Sinh.
Do đó, nay Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho ông diện tích 26,8 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 88.440.000 đồng theo Quy định về giá các loại đất trên địa bàn tỉnh năm 2014. Ngoài ra, Hội đồng Bồi thường còn bồi thường bổ sung diện tích 51,8 m2 đất với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 170.940.000 đồng.
Đối với hộ ông Trần Văn Tư (ngụ số 13/3, khu phố 7, phường 2), Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho ông Tư diện tích 115,6 m2 đất bị ảnh hưởng chưa được bồi thường với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 381.480.000 đồng và bồi thường bổ sung diện tích 118,1 m2 đất do bị thu hồi bởi Dự án mở rộng QL1A năm 2005 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 389.700.000 đồng, nhưng phải trừ lại số tiền ông Tư đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.
Trường hợp của ông Nguyễn Thành Long (ngụ số 24/3, khu phố 7, phường 2), Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường diện tích 80,88 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 226.904.000 đồng và bồi thường bổ sung diện tích 82,22 m2 đất bị thu hồi của ông Long cũng với giá đất ở đô thị, mức giá 3.300.000 đồng/m2, thành tiền 271.326.000 đồng, nhưng phải trừ lại số tiền ông Long đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.
Trường hợp của bà Nguyễn Thị Hiệp (ngụ số 1/3, khu phố 4, phường 4) khiếu nại yêu cầu bồi thường phần diện tích 54 m2 đất bị ảnh hưởng Dự án mở rộng QL1A năm 2005 chưa được bồi thường và yêu cầu bồi thường bổ sung diện tích 100 m2 do bị thu hồi (đất nằm trong quyền sử dụng của gia đình) theo giá đất ở là có cơ sở.
Vì căn cứ vào Biên bản kiểm kê ngày 21-12-2004 của Hội đồng Bồi thường GPMB huyện Cai Lậy kèm theo Hồ sơ kỹ thuật thửa đất thể hiện phần đất bà Hiệp bị ảnh hưởng diện tích 54 m2 nằm trong quyền sử dụng đất của bà Hiệp và cùng một thửa đất gắn với nhà ở hình thành trước ngày 18-12-1980, nhưng Hội đồng Bồi thường GPMB chưa áp giá bồi thường cho bà Hiệp.
Do đó, Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho bà diện tích 54 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 6.000.000 đồng/m2, thành tiền 342.300.000 đồng, trong đó có 10,2 m2 đất chưa bồi thường trong diện bổ sung, thành tiền 79.500.000 đồng.
Đối với phần diện tích 100 m2 của bà Hiệp bị ảnh hưởng (có nhà ở) thuộc khu dân cư được hình thành và sử dụng trước ngày 18-12-1980, khi thu hồi đã bồi thường cho bà giá đất nông nghiệp và hỗ trợ 50% giá đất ở đối với đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư là chưa đúng quy định của pháp luật.
Do đó, Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường GPMB bồi thường bổ sung cho bà Hiệp diện tích 100 m2 với giá đất ở đô thị, mức giá 6.000.000 đồng/m2, thành tiền 398.100.000 đồng, nhưng phải trừ lại số tiền bà Hiệp đã nhận bồi thường trước đây và thuế trước bạ theo quy định.
Hộ bà Mai Thị Thống (ấp Thanh Sơn, xã Thanh Hòa, TX. Cai Lậy) bị ảnh hưởng diện tích 155,4 m2 đất chưa được bồi thường (trong đó có 83,5 m2 đất ở), được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho bà diện tích 83,5 m2 với giá đất ở nông thôn, mức giá 1.800.000 đồng/m2, thành tiền 150.300.000 đồng; bồi thường diện tích 71,9 m2 đất bị thu hồi với giá đất nông nghiệp, mức giá 160.000 đồng/m2, thành tiền 11.504.000 đồng theo giá đất năm 2014;
Đồng thời bồi thường bổ sung diện tích 216,5 m2 đất bị thu hồi với giá đất ở nông thôn, mức giá 1.800.000 đồng/m2, thành tiền 389.700.000 đồng theo giá đất năm 2014. Ngoài ra, Tổ Công tác 1966 còn đề nghị Hội đồng Bồi thường có chính sách hỗ trợ cho gia đình bà Thống phần diện tích đền bù giá đất nông nghiệp, vì đây là đất mặt tiền QL1A có giá trị sinh lợi cao.
Đối với trường hợp của ông Trần Minh Thạo (ngụ ấp Quý Phước, xã Nhị Quý, TX. Cai Lậy) bị ảnh hưởng 2 thửa: Thửa 1 diện tích 142,5 m2 đất (chưa được bồi thường), được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh chỉ đạo Hội đồng Bồi thường áp giá bồi thường cho ông với giá đất ở nông thôn, mức giá 1.400.000 đồng/m2 (90,9 m2), thành tiền 127.260.000 đồng.
Diện tích 51,6 m2 còn lại, bồi thường giá đất nông nghiệp 70.000 đồng/m2, thành tiền 3.612.000 đồng và bồi thường bổ sung diện tích 209,1 m2 đất bị thu hồi với giá đất ở nông thôn, mức giá 1.400.000 đồng/m2, thành tiền 292.740.000 đồng.
Thửa 2 bị ảnh hưởng 104,3 m2 đất nông nghiệp (chưa được bồi thường), được Tổ Công tác 1966 đề xuất Chủ tịch UBND tỉnh thống nhất bồi thường với giá 70.000 đồng/m2, thành tiền 7.301.000 đồng, nhưng đề xuất có chính sách hỗ trợ cho gia đình ông Thạo phần diện tích đền bù giá đất nông nghiệp, vì đây là đất mặt tiền QL1A có giá trị sinh lợi cao.
Sau hơn 1 buổi làm việc, Chủ tịch UBND tỉnh Nguyễn Văn Khang kết luận: Thống nhất đề xuất của Tổ Công tác 1966 về việc giải quyết khiếu nại của 6 hộ dân (nêu trên).
TỔ CTBĐ