Một vụ mua bán đất có nhiều "uẩn khúc"
Năm 2009, bà Lại Thu Hương (SN 1980, ngụ khu phố 4, thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè) mua 399,43 m2 đất mặt tiền QL50 của bà Nguyễn Thị Chỉ (tọa lạc ấp Long Hòa B, xã Đạo Thạnh, TP. Mỹ Tho) với giá 1,2 tỷ đồng, nhưng trong hồ sơ bà Hương đề nghị ghi 700 triệu đồng và đã đặt cọc 5 triệu đồng, hứa khi nào làm xong giấy tờ sẽ giao (1 lần) đủ số tiền trên cho bà Chỉ; nhưng khi bà Hương được chuyển tên, sang bộ xong thì “lặn” luôn và sau đó đem giấy tờ thế chấp cho người khác lấy hơn 2 tỷ đồng.
Bà Chỉ khởi kiện đòi lại đất, tòa án xử buộc bà Hương trả bằng tiền theo hồ sơ mua bán, nhưng đến nay (hơn 6 năm) vụ việc vẫn chưa giải quyết dứt điểm.
“Quyết định Giám đốc thẩm số 213/DS-GĐT của TAND Tối cao”. |
Qua tìm hiểu, được biết, sau khi làm giấy tờ xong (được đứng tên chủ quyền phần đất của bà Chỉ bán), ngày 26-6-2011 bà Lại Thu Hương đem thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng phần đất trên cho ông Cao Văn Tống (ngụ khu 3, thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè) để vay 2,05 tỷ đồng. Đến nay vốn, lãi quá hạn mà bà Hương chưa trả, bị ông Tống khởi kiện ra tòa, vụ việc vẫn chưa có hồi kết.
Tại Bản kháng nghị Giám đốc thẩm số 61/KN-DS, ông Bùi Ngọc Hòa, Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao xét thấy: Bà Nguyễn Thị Chỉ lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 399,43 m2 đất cho bà Lại Thu Hương với giá 700 triệu đồng theo quy định của pháp luật. Trước đó, bà Hương có đặt cọc số tiền 5 triệu đồng cho bà Chỉ.
Tại đơn khởi kiện và các lời khai của bà Chỉ cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên có giá trị là 700 triệu đồng. Ngược lại, bà Lại Thu Hương thì cho rằng hợp đồng có giá là 1,2 tỷ đồng, bà đã trả cho bà Chỉ 500 triệu đồng, còn lại 700 triệu đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đã thay đổi lời khai. Bà Chỉ xác định hợp đồng là 1,2 tỷ đồng, bà Hương trả tiền cọc 5 triệu đồng, còn lại 1,195 tỷ đồng. Về phía bà Hương không thừa nhận, mà cho rằng hợp đồng có giá trị 700 triệu đồng, bà đã trả 5 triệu đồng, còn lại 695 triệu đồng.
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định hợp đồng chuyển nhượng giữa 2 bên với số tiền 700 triệu đồng là có căn cứ. Tuy nhiên, khi xét xử chỉ buộc bà Hương phải trả 695 triệu đồng mà chưa xét đến việc chậm thanh toán tiền do lỗi bà Hương là có thiếu sót (theo Điều 290, 302 và 305 của Bộ luật Dân sự năm 2005) đối với số tiền chậm trả theo lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.
Vụ án trên được TAND Tối cao ban hành Quyết định Giám đốc thẩm số 231/DS-GĐT, hủy 2 bản án sơ thẩm, phúc thẩm của TAND TP. Mỹ Tho và TAND tỉnh Tiền Giang; giao hồ sơ cho TAND TP. Mỹ Tho xét xử lại theo quy định của pháp luật.
Ngày 30-9-2015, TAND TP. Mỹ Tho đưa vụ án ra xét xử, buộc bà Hương trả cho bà Chỉ 695 triệu đồng + 26.062.500 đồng = 721.062.500 đồng và không chấp nhận hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (QSDĐ) đã cấp cho bà Hương để trả đất lại cho bà Chỉ; đồng thời buộc gia đình bà Chỉ tháo dỡ căn nhà có diện tích 14,56 m2 để trả lại đất cho bà Hương.
Bà Chỉ không thống nhất với Bản án số 422/2015/DS-ST của TAND TP. Mỹ Tho, đã tiếp tục khiếu nại lên cấp trên.
Luật sư Vũ Trọng Kỳ, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh (người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bà Nguyễn Thị Chỉ) cho biết: Trong vụ án này có nhiều tình tiết cần phải xem xét lại để làm rõ:
Một là, hợp đồng chuyển nhượng đất có giá trị 1,2 tỷ đồng được bà Lại Thu Hương thừa nhận tại các biên bản hòa giải ngày 12-10-2010 của TAND TP. Mỹ Tho, biên bản tại 2 phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm ngày 29-12-2010 và ngày 13-5-2011. Đây là chứng cứ thực tế cần xem xét (theo Điều 82, Bộ luật Tố tụng dân sự quy định), tòa án không thể cho là chứng cứ trái quy định của pháp luật.
Hai là, Giấy chứng nhận QSDĐ của bà Chỉ là cấp cho hộ gia đình (gồm 4 nhân khẩu), nhưng có bà Chỉ và đứa cháu gái tên Đỗ Thị Ngọc Diễm ký tên trong hồ sơ mua bán đất, còn lại 2 anh Đỗ Anh Phong và Đỗ Anh Vũ thì không có ký tên trong hồ sơ chuyển nhượng cho bà Hương. Như vậy, hợp đồng mua bán này là vô hiệu, nhưng tòa án bỏ qua trong quá trình xét xử là không đúng theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Ba là, bà Hương đã thừa nhận giá mua bán thực tế là 1,2 tỷ đồng nhưng trong hợp đồng bà yêu cầu ghi 700 triệu đồng nhằm trốn thuế (vì toàn bộ hồ sơ mua bán bà Hương lo) là hợp đồng vô hiệu, không có giá trị pháp lý. Vì lẽ đó, tòa căn cứ vào hợp đồng buộc bà Hương trả cho bà Chỉ 700 triệu đồng là chưa thuyết phục.
Đề nghị tòa án cấp phúc thẩm xem xét và làm rõ các vấn đề trên để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người dân; đồng thời đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
TỔ CTBĐ
.