.

Đại biểu Lê Quang Trí: Góp ý dự án Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều

Cập nhật: 20:17, 28/05/2020 (GMT+7)

(ABO) Tiếp tục chương trình làm việc Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XIV, chiều 28-5, Quốc hội tiếp tục thảo luận trực tuyến dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều.

Sau khi nghe Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều, đại biểu Lê Quang Trí tham gia thảo luận để góp phần hoàn thiện dự thảo Luật, cụ thể:

1. Về chính sách của Nhà nước trong phòng, chống thiên tai (tại Điều 5 Luật Phòng, chống thiên tai).

Đại biểu Lê Quang Trí cho rằng, Việt Nam là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Những tháng đầu năm 2020, đã có 8 tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long công bố tình trạng khẩn cấp về hạn, mặn. Hàng triệu người dân thiếu nước sinh hoạt và thiếu nước sản xuất. Do đó, cần chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo đại biểu Lê Quang Trí, cần khẩn trương đầu tư xây dựng các ao, hồ, công trình trữ nước ngọt cho các vùng có nguy cơ cao hạn và xâm nhập mặn để chủ động nguồn nước sinh hoạt, nước sản xuất, góp phần phát triển bền vững đất nước. Để có cơ sở pháp lý thực hiện việc này, đại biểu Lê Quang Trí đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung 1 khoản vào Điều 5 quy định “Ưu tiên đầu tư các công trình trữ nước ngọt tại các vùng có nguy cơ cao hạn, xâm nhập mặn”.

đại biểu Lê Quang Trí, Đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Tiền Giang đóng góp ý kiến tại phiên thảo luận trực tuyến
Đại biểu Lê Quang Trí đóng góp ý kiến tại phiên thảo luận trực tuyến.

2. Về khoa học và công nghệ phòng, chống thiên tai (tại Điều 39a Luật Phòng, chống thiên tai)

Đại biểu Lê Quang Trí thống nhất với các quy định tại điều này, quy định việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ để nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, theo dõi, giám sát, truyền tin các loại hình thiên tai cũng như quy định việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng công trình phòng, chống thiên tai. Tuy nhiên, trước yêu cầu của thực tiễn phải ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn đang diễn ra trên diện rộng và thường xuyên, rất cần ưu tiên nghiên cứu các giải pháp ứng phó. Theo đại biểu Lê Quang Trí, có 2 giải pháp khả thi:

Giải pháp (1): Khai thác, sử dụng nguồn nước ngầm trong mùa khô hạn. Bơm nước ngọt đã qua xử lý trở lại các túi nước ngầm trong mùa mưa, thời gian mà nguồn nước sông dồi dào. Giải pháp này giúp chúng ta luôn có một lượng lớn nước ngọt dự trữ dưới đất và góp phần hạn chế sụt lún nền đất do các năm qua chúng ta chỉ có khai khác và khai thác quá mức nguồn nước ngầm làm cho các túi nước ngầm cạn nước.

Giải pháp (2): Gây mưa nhận tạo cho các vùng hạn nghiêm trọng. Giải pháp này đã được các nước như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Thái Lan nghiên cứu và áp dụng.

Do đó, đại biểu Lê Quang Trí đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung 2 khoản vào Điều 39a.

- Bổ sung khoản 3, quy định “Ưu tiên nghiên cứu công nghệ gây mưa nhân tạo đảm bảo an toàn, hiệu quả”.

- Bổ sung khoản 4, quy định “Ưu tiên nghiên cứu công nghệ xử lý nguồn nước sông, nước suối, bơm cấp trở lại các túi nước ngầm”.

Quy định này là cơ sở pháp lý để Bộ Khoa học và Công nghệ quy tụ các nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam hợp tác cùng các nhà khoa học của các nước có kinh nghiệm trong lĩnh vực này triển khai nhiệm vụ khoa học cấp nhà nước nghiên cứu công nghệ gây mưa nhân tạo đảm bảo an toàn môi trường và có chi phí vận hành phù hợp.

3. Về chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực đê điều (tại Điều 6 Luật Đê điều )

Thực tế, nhiều vùng biển của Việt Nam có sóng biển rất mạnh, sóng biển đánh liên tục vào bờ, gây sạt lở bờ biển nghiêm trọng, có nơi mỗi năm bờ biển bị sạt lở từ 20 m đến 30 m, làm cho nhiều đoạn đê biển đang bị đe dọa nghiêm trọng. Hằng năm, chúng ta phải gia cố, bảo trì đê biển rất tốn kém. Vậy tại sao chúng ta không biến nguy thành cơ? Đại biểu Lê Quang Trí cho rằng, nên nghiên cứu, đầu tư các công trình biến năng lượng sóng biển tại các vùng biển có sóng biển mạnh thành điện năng sẽ có hiệu quả kép: Vừa tận dụng được nguồn năng lượng tái tạo, vô tận của biển vừa bảo vệ được bờ biển, bảo vệ đê biển, giảm chi phí bảo trì, bảo dưỡng các công trình đê biển. Thực tế, từ năm 2016, đã có nhà máy sản xuất điện từ năng lượng sóng biển, hòa mạng lưới điện quốc gia tại Vương quốc Anh. Và theo đánh giá của Hội đồng năng lượng thế giới, thị trường điện năng từ sóng biển là rất tiềm năng, khoảng 1.000 tỷ USD.

Do đó, đại biểu Lê Quang Trí đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung 1 khoản trong Điều 6 Luật Đê điều quy định “Khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân nghiên cứu, đầu tư công trình sản xuất điện từ năng lượng sóng biển kết hợp bảo vệ đê biển”.

HOÀI THU (tổng hợp)

.
.
.