Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 - biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đại đoàn kết toàn dân”. Tư tưởng ấy của Người đã được hiện thực hóa sinh động trong sự nghiệp giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước.
Từ năm 1941, sau 30 năm xa Tổ quốc trở về, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dày công xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Mặt trận Việt Minh do Người sáng lập là hình ảnh khối đại đoàn kết dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân.
Đánh chiếm Bắc Bộ phủ. Ảnh: TƯ LIỆU |
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân bao trùm và quyết định nhất là sức mạnh của cả dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sức mạnh đó đã được Đảng ta phát huy cao độ, trở thành sức mạnh vô địch, nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và kẻ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.
ĐOÀN KẾT TỪ TỔ CHỨC LÃNH ĐẠO
Năm 1930, khi thống nhất các tổ chức Cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đưa ra “Năm điểm lớn” trong Cương lĩnh, như những nguyên tắc để gạt bỏ các bất đồng trước đó và đi tới thống nhất trong phong trào cách mạng Việt Nam. Trong đó, hợp tác, thống nhất được Người nhấn mạnh ở ngay điểm đầu tiên: “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”.
Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 - biểu tượng của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc - điều mà 12 năm sau đó, ngày 2-9-1957, tại Lễ kỷ niệm Ngày Quốc khánh nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Cách đây 12 năm, toàn dân ta từ Nam chí Bắc đã đoàn kết đứng dậy làm Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Từ đó, trải qua tám, chín năm, toàn dân ta đã đoàn kết kháng chiến anh dũng và gian khổ. Kết quả là kháng chiến thắng lợi, thành quả của Cách mạng Tháng Tám được bảo vệ, hòa bình được lập lại trong cả nước, miền Bắc của ta được hoàn toàn giải phóng, Hiệp định Giơ-ve-vơ công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta. Ngày kỷ niệm hôm nay là một ngày đầy tin tưởng, phấn khởi, đoàn kết, tin tưởng ở sức mạnh đoàn kết của toàn dân, tin tưởng ở thắng lợi cuối cùng của hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước” . |
Từ tầm nhìn xa trông rộng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn chính là bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn thêm lên mãi...”.
Chính vì thế, ngay từ khi vừa thành lập, Đảng ta đã không ngừng xây dựng, củng cố khối liên minh công -nông và coi trọng việc đoàn kết, tập hợp các lực lượng khác: Thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, tiểu thương, tư sản, địa chủ… Với tuyên ngôn về đoàn kết, thống nhất, Đảng Cộng sản đã trở thành hạt nhân quy tụ sức mạnh đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với xu hướng cách mạng thế giới, là tiền đề quan trọng nhất cho những bước phát triển tiếp theo.
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941) tại Pác Bó (Cao Bằng). Tại đây, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh, nhằm “liên hiệp hết thảy các giới, đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, trai gái, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn”. Coi quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy, Việt Minh “sẵn sàng giơ tay đón tiếp những cá nhân hay đoàn thể, không cứ theo chủ nghĩa quốc tế hay quốc gia, miễn thành thực muốn đánh đuổi Nhật, Pháp để dựng lên một nước Việt Nam tự do và độc lập”.
Sự ra đời của Mặt trận Việt Minh đánh dấu bước ngoặt trong đường lối lãnh đạo cách mạng, hướng tới việc mở rộng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, quy tụ và phát huy cao độ nội lực dân tộc cho một cuộc hồi sinh vĩ đại. Kể từ đây, chủ trương đoàn kết dân tộc của Đảng được đặt trên cơ sở của chính chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Chủ trương này được thực hiện nhất quán trong công tác vận động quần chúng của Đảng. Với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, lần đầu tiên Mặt trận Dân tộc Thống nhất đã trở thành hiện thực và phát huy vai trò mạnh mẽ.
SỰ VÙNG DẬY CỦA CẢ DÂN TỘC
Ngày 11-8-1945, Chính phủ Nhật chấp nhận đầu hàng Đồng minh không điều kiện và đúng như dự kiến của Đảng ta, cơ hội “ngàn năm có một” để giành độc lập cho dân tộc đã đến. Tuy phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh không điều kiện, nhưng vào thời điểm này ở Đông Dương, quân đội Nhật vẫn có khoảng 10 vạn quân, đóng chủ yếu ở Việt Nam.
Trong khi đó, chính phủ tay sai thân Nhật đang tìm mọi cách chống lại cách mạng hòng duy trì địa vị của chúng. Các nước Đồng minh đang chuẩn bị tiến vào Đông Dương, đặc biệt là, một sư đoàn Pháp đang trên đường tới Đông Dương để thực hiện xâm lược khu vực này lần thứ hai.
Cũng vào thời điểm này, chúng ta mới có 5.000 đảng viên, mà một số khá đông còn nằm trong nhà tù, trại tập trung và bị đày biệt xứ. Lực lượng vũ trang cách mạng do Đảng lãnh đạo cũng chỉ mới có khoảng 5.000 người.
Thực tế đó càng khẳng định chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc mà Đảng và Mặt trận Việt Minh đề ra và thực hiện từ trước tới nay là đúng đắn. Vấn đề quan trọng nhất lúc này là phải huy động được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết đó vào cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi điều kiện đã chín muồi.
Cuộc mít tinh, tuần hành rầm rộ đầu tiên biểu hiện sức mạnh của quần chúng nhân dân và có tính quyết định đường lối và hình thức tổng khởi nghĩa của Đảng ta là cuộc mít tinh ngày 17-8-1945 của nhân dân Hà Nội tại Quảng trường Nhà hát lớn thành phố.
Cuộc biểu tình với các khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam hoàn toàn độc lập”… đã đi qua trước cửa Phủ Toàn quyền - trụ sở của viên Toàn quyền Nhật lúc đó, nhưng quân đội Nhật không có phản ứng gì.
Cuộc biểu tình đó đã giúp Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội có những nhận định chính xác về tình hình lực lượng giữa ta và địch, thái độ án binh bất động của Nhật, tâm trạng hoang mang lo sợ của bọn phản động, chính quyền bù nhìn và đi đến quyết định tiến hành tổng khởi nghĩa ở Hà Nội.
Về phương thức khởi nghĩa, Ủy ban Quân sự cách mạng Hà Nội đã xác định: Mặc dù về quân sự có sự chênh lệch lớn giữa ta và địch, song lực lượng quần chúng cách mạng đang ở thế áp đảo để tiến hành khởi nghĩa, kết hợp chĩa mũi nhọn chính vào chính quyền bù nhìn và sách lược mềm dẻo nhằm vô hiệu hóa sự phản ứng của Nhật, giành chính quyền về tay nhân dân. Chính nhờ vận dụng tốt phương thức đó mà chỉ trong ngày 19-8, cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội đã thành công rực rỡ. Phương thức khởi nghĩa độc đáo đó của Hà Nội đã được Trung ương Đảng phê chuẩn và trở thành phương thức khởi nghĩa của hầu hết các địa phương trong cả nước.
Ngày 23-8-1945, tại Huế, hàng vạn nhân dân thành phố và các huyện lân cận đã xuống đường mít tinh, tuần hành buộc chính quyền trung ương của địch phải đầu hàng, vua Bảo Đại phải thoái vị, đánh dấu sự sụp đổ của chế độ phong kiến ở Việt Nam.
Tại Sài Gòn, ngày 25-8, hàng triệu nhân dân nội thành và các vùng ven đô đã tổ chức cuộc mít tinh, tuần hành khổng lồ, với lực lượng “Thanh niên Tiền phong” làm xung kích, lật đổ chính quyền tay sai Nhật ở Sài Gòn, lập chính quyền cách mạng.
Cách mạng Tháng Tám giành thắng lợi oanh liệt và nhanh chóng do nhiều nguyên nhân, chủ yếu là do chính sách đại đoàn kết dân tộc của Mặt trận Việt Minh do Đảng Cộng sản Đông Dương và lãnh tụ Hồ Chí Minh thành lập và lãnh đạo.
Mặt trận Việt Minh đã giương cao ngọn cờ dân tộc, xác định đúng kẻ thù, có những chủ trương, chính sách đúng đắn, những khẩu hiệu đấu tranh thích hợp, đáp ứng yêu cầu cách mạng, phù hợp với nguyện vọng và quyền lợi bức thiết của mọi tầng lớp nhân dân.
Mặt trận Việt Minh trở thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh của toàn dân, trở thành động lực cơ bản của Cách mạng Tháng Tám. Dưới ngọn cờ của Việt Minh, hàng chục triệu người, gồm đủ các tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh, gồm các dân tộc Việt, Thổ, Nùng, Mường, Mán… đứng dậy làm cuộc tổng khởi nghĩa vĩ đại giành độc lập cho dân tộc.
HỒNG LÊ (tổng hợp)