.

"Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy"

Cập nhật: 21:45, 26/07/2021 (GMT+7)

(ABO) “Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”- đó là câu nói đầy tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban Tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc” vào ngày 27-7-1947. 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người luôn quan tâm và chia sẻ với các thương binh và gia đình liệt sĩ mặc dù cuộc kháng chiến và kiến quốc của Đảng và nhân dân ta còn gặp nhiều khó khăn và thử thách.  Người từng khẳng định: “Thương binh, bệnh binh, gia đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người đã có công với Tổ quốc, với nhân dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kính cẩn nghiêng mình trước anh linh các liệt sĩ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính cẩn nghiêng mình trước anh linh các liệt sĩ.

Người luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân ta bất kể trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn ghi nhớ công ơn to lớn của các đồng chí thương binh, liệt sĩ, những người đã hy sinh tính mạnh hoặc bỏ lại một phần xương máu của mình trên chiến trường vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một hội nghị trù bị đã khai mạc tại xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên gồm có một số đại biểu ở Trung ương; khu và tỉnh. Hội nghị nhất trí lấy ngày 27-7 hằng năm làm “Ngày Thương binh - Liệt sĩ” và tổ chức ngay lần đầu trong năm 1947.

Cả một đời vì dân, vì nước, vì dân, Bác Hồ luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với đất nước. Người vừa là hiện thân, một biểu tượng của sự quên mình, vừa là người thấu hiểu giá trị nhân văn của sự hi sinh và đi đầu, khởi xướng các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”…

Ngày 10-8-1946, Báo Cứu Quốc đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Nam bộ. Trong thư có đoạn người viết: “Tôi kính cẩn cúi chào vong linh các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hi sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”.

Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên nam nữ tham gia Quân đội. Một số chiến sĩ đã hi sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bệnh binh, đời sống gặp khó khăn. Trước tình hình ấy, tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm “Ngày thương binh” để đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh.

Bác Hồ, Bác Tôn và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội viếng các anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Bác Hồ, Bác Tôn và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội viếng các Anh hùng liệt sĩ tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.

Báo Vệ Quốc Quân số 11, ra ngày 27-7-1947 đã đăng thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Thường trực Ban Tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc”. Đầu thư Người viết: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù? Đó là những chiến sĩ mà nay một số đã thành ra thương binh”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích: “Thương binh là người đã hi sinh gia đình, hi sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đã chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”. Cuối thư, Người vận động đồng bào nhường cơm, sẻ áo, giúp đỡ thương binh. Bản thân Người đã xung phong góp một chiếc áo lụa, một tháng lương và tiền ăn một bữa của Người và tất cả các nhân viên Phủ Chủ tịch, cộng là 1.127 đồng để tặng thương binh.

Bác Hồ thăm hỏi chiến sĩ thi đua Phạm Trung Pôn bị mù hai mắt nhưng đã có sáng kiến cải tiến nông cụ
Bác Hồ thăm hỏi chiến sĩ thi đua Phạm Trung Pôn bị mù hai mắt nhưng đã có sáng kiến cải tiến nông cụ.

Tình yêu thương của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ còn được thể hiện ở những nghĩa cử cao đẹp, bình dị và rất đỗi tự nhiên trong đời sống thường ngày. Người thường trích lương, dùng những bộ quần áo, khăn tay, các vật dụng khác để làm quà tặng cho anh em thương binh tại các trại điều dưỡng.

Những món quà của Chủ tịch Hồ Chí Minh tuy nhỏ nhưng vô cùng quý giá, vì đó chính là sự quan tâm, chăm sóc, là tình cảm của Người dành cho thương binh, bệnh binh. Những món quà đó là nguồn cổ vũ động viên tinh thần to lớn đối với thương bệnh binh làm ấm lòng người chiến sĩ.

Năm 1954, sau khi thủ đô Hà Nội được giải phóng, ngày 31-12, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí Trường Chinh, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp đã đến đặt vòng hoa lên Đài liệt sĩ - Đài mới được dựng trên khoảng đất rộng trong vườn hoa cạnh Quảng trường Ba Đình, trước Phủ Chủ tịch.

Đứng trước Đài liệt sĩ, hương trầm nghi ngút, Bác bùi ngùi tưởng nhớ các liệt sĩ, không giữ được dòng nước mắt. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bác đọc điếu từ. Bác viết: “Hỡi các liệt sĩ! Trong lúc cả nước vui mừng thì mọi người đều thương tiếc các liệt sĩ đã hi sinh vì Tổ quốc, vì dân tộc. Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá quốc kỳ. Tiếng thơm các liệt sĩ sẽ muôn đời truyền với sử xanh…”.

Sau ngày hòa bình lập lại trên miền Bắc, trong một lần đi thăm Trường Thương binh hỏng mắt, Bác đã khuyên anh chị em “tàn mà không phế”. Bác đã dành nhiều phần thưởng cho các thương binh lao động, học tập giỏi. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách giúp đỡ những thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ...”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm trường thương binh hỏng mắt ở Hà Nội, Người nói: “Thương binh tàn, nhưng không phế”, ngày 11-2-1956.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trường Thương binh hỏng mắt ở Hà Nội, Người nói: “Thương binh tàn, nhưng không phế”.

Tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ không chỉ là sự tiếc thương, ngậm ngùi, đau xót và tự hào, mà còn gợi lên tinh thần bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của cả dân tộc, của những người đã hy sinh, những người cống hiến một phần cơ thể của mình cho đất nước. Người đã làm cho sự hy sinh, mất mát của các thương binh, liệt sĩ càng thêm cao đẹp hơn bằng cách gắn sự tổn thất lớn lao ấy vào ý thức của những người còn sống về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với những người đã khuất cũng như những người đã để lại một phần xương máu ở chiến trường.

74 năm qua kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lấy ngày 27-7 hằng năm là ngày Thương binh - Liệt sĩ, dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã tạo nên một truyền thống quý báu. Đó là truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, tri ân, biết ơn và chăm lo những người đã hi sinh máu xương của mình cho nền độc lập của dân tộc.

HỒNG LÊ (tổng hợp)

 

.
.
.