Sống mãi tinh thần "Còn sống còn chiến đấu, còn hơi thở còn xây dựng Đảng"
Đồng chí Phan Đăng Lưu sinh ngày 5-5-1902 ở thôn Đông, xã Hoa Thành (trước đây là xã Tràng Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, trong một gia đình Nho học, có truyền thống yêu nước. Sớm mang trong mình tinh thần yêu nước, thương dân sâu sắc, mặc dù đã có một công việc ổn định trong bộ máy chính quyền thực dân, điều không dễ có được trong bối cảnh xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, song đồng chí đã chọn con đường tranh đấu đầy chông gai, thử thách, nhưng hết sức vẻ vang, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Với 39 năm tuổi đời, 16 năm hoạt động cách mạng liên tục, đồng chí đã để lại hình ảnh cao đẹp của một nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.
NGƯỜI CỘNG SẢN KIÊN TRUNG, BẤT KHUẤT
Sớm có tư tưởng chống thực dân Pháp xâm lược, tốt nghiệp Trường Canh nông thực hành ở tỉnh Tuyên Quang với tấm bằng hạng Ưu, đồng chí Phan Đăng Lưu được làm nhân viên tập sự tại Sở Canh nông Bắc kỳ. Năm 1924, đồng chí đến nhận việc tại Trại Nuôi tằm Thanh Ba (tỉnh Phú Thọ), 1 năm sau được chuyển về Sở Canh nông Nghệ An.
Tại đây, đồng chí nhanh chóng bắt liên lạc với các thành viên trong Hội Phục Việt và tích cực tham gia các hoạt động yêu nước ở TP. Vinh (tỉnh Nghệ An): Tìm đọc và phổ biến sách báo tiến bộ, bàn luận thời cuộc với những người yêu nước và ký tên vào Bản yêu sách đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu. Chính quyền thực dân Pháp biết được, đã tìm mọi cách luân chuyển đồng chí làm nhiều công việc khác nhau và cuối cùng thì bị Khâm sứ Trung kỳ ra quyết định cho nghỉ việc vì những hoạt động yêu nước của đồng chí.
Mặc dù bị đích bắt lần thứ hai, bị tòa án thực dân kết án tử hình, thời gian trong xà lim án chém, đồng chí luôn, giữ vững khí tiết của người cộng sản, trở thành tấm gương sáng về ý chí kiên cường, bất khuất trước kẻ thù, với tinh thần “Còn sống còn chiến đấu, còn hơi thở còn xây dựng Đảng”. Nơi an nghỉ ngàn thu của đồng chí Phan Đăng Lưu tại Nghĩa trang Liệt sĩ TP. Hồ Chí Minh. |
Về quê, đồng chí tiếp tục hoạt động, xây dựng nhiều tổ chức mới của Việt Nam Cách mạng Đảng và Tân Việt. Tháng 2-1928, đồng chí được kết nạp vào tổ chức Hội Phục Việt (lúc này Hội đổi tên là Hưng Nam, sau đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng).
Tháng 9-1929, Tổng bộ Tân Việt cử đồng chí sang Quảng Châu lần thứ hai. Khi đang ở Hải Phòng để chuẩn bị sang Trung Quốc, do có kẻ phản bội chỉ điểm, đồng chí bị mật thám bắt đưa về giam ở nhà lao Vinh và bị Tòa Nam triều Nghệ An kết án 7 năm tù giam, đày lên nhà tù Buôn Ma Thuột - một trong những nhà tù, nhà đày khắc nghiệt nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương.
Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đồng chí được kết nạp Đảng ở trong tù và tham gia ban lãnh đạo những người cộng sản ở trong tù. Tại đây, cùng với nhiều tù chính trị, đồng chí bị giam cầm, tra tấn dã man nhưng vẫn kiên trì, bền bỉ, lãnh đạo các cuộc đấu tranh trong nhà tù đòi quyền lợi cho tù chính trị; đồng thời viết nhiều bài báo gửi ra bên ngoài tố cáo tội ác của thực dân Pháp ở nhà tù Buôn Ma Thuột.
Giữa năm 1936, phong trào đấu tranh đòi quyền tự do, dân chủ và thả tù chính trị dấy lên ở Pháp và Đông Dương, thực dân Pháp ở Đông Dương buộc phải thả một số tù chính trị, trong đó có đồng chí Phan Đăng Lưu. Ra tù, đồng chí về hoạt động tại Huế trong sự kiểm soát của mật thám Pháp.
Tháng 3-1938, Xứ ủy Trung kỳ được thành lập lại, đồng chí được bầu vào Xứ ủy Trung kỳ và Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, phụ trách hoạt động công khai ở Huế, đóng góp tích cực trong phong trào báo chí và cuộc vận động Đông Dương Đại hội.
Trước tình hình hầu hết các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương bị thực dân Pháp bắt trong nửa đầu năm 1940, nhiều đồng chí trong Xứ ủy Nam kỳ chủ trương tiến hành khởi nghĩa. Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trong những người sớm nhận thức được yêu cầu phải khẩn trương tổ chức tái lập Ban Chấp hành Trung ương và ngăn cuộc khởi nghĩa nổ ra khi thời cơ chưa chín muồi. Với sự phân tích sâu sắc điều kiện để khởi nghĩa, tương quan lực lượng giữa ta và địch, đồng chí đã kiên trì đề nghị hoãn cuộc khởi nghĩa, chờ ý kiến chính thức của Trung ương.
Đồng chí đã lên đường ra Bắc, tham gia tổ chức thành công Hội nghị Ban Chấp hành (BCH) Trung ương lâm thời tháng 11-1940, rồi lập tức lên đường vào Nam kỳ để truyền đạt quyết định của BCH Trung ương lâm thời, hoãn Cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ.
Về đến Sài Gòn tối 22-11-1940, chưa kịp truyền đạt chỉ thị của Trung ương, đồng chí bị mật thám Pháp bắt. Trong đêm đó, đồng chí Tạ Uyên và nhiều người trong Xứ ủy, cấp ủy các cấp cũng bị địch bắt. Tòa án binh của chính quyền thực dân Pháp ở Sài Gòn trong các phiên xử ngày 25-3-1941 và ngày 3-4-1941 đã tuyên án tử hình đồng chí.
Bị dư luận nhân dân phản đối, ngày 28-8-1941, thực dân Pháp bí mật đưa đồng chí Phan Đăng Lưu và một số đồng chí khác ra bắn tại ngã ba Giồng, xã Tân Thới Thượng (Hóc Môn, Gia Định).
NGƯỜI CHIẾN SĨ TIÊN PHONG TRÊN MẶT TRẬN BÁO CHÍ
Trong trang sử vàng của cách mạng Việt Nam và của báo chí cách mạng Việt Nam, đồng chí Phan Đăng Lưu có một vị trí xứng đáng, trân trọng. Đồng chí là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng ta, nhân dân ta và là một nhà báo cách mạng ưu tú, tiêu biểu trong thập niên ba mươi của thế kỷ XX.
Đồng chí Phan Đăng Lưu (hàng sau, thứ hai, từ trái sang) trong phong trào vận động dân chủ (1936 - 1939) tại Huế. |
Tháng 5-1928, đồng chí được Tổng bộ Việt Nam Cách mạng Đảng cử vào Huế phụ trách Quan Hải tùng thư - một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ trương, in ấn, xuất bản tuyên truyền những sách báo tiến bộ. Trong thời gian tham gia Quan Hải tùng thư, đồng chí đã dùng báo chí để tuyên truyền, vận động giác ngộ lý tưởng cách mạng trong các tầng lớp nhân dân.
Năm 1928, tại Đại hội thành lập Tân Việt Cách mạng Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên Thường vụ Tổng bộ phụ trách Tuyên huấn. Trên cương vị mới, đồng chí rất coi trọng tuyên truyền, giáo dục lý tưởng cách mạng và đã sử dụng báo chí là một công cụ để “tuyên truyền tập thể, tổ chức tập thể, cổ động tập thể”. Trong chuyến đi Trung Quốc sau đó, đồng chí mang về nước nhiều tài liệu, sách báo quý về chủ nghĩa Mác, về Cách mạng Tháng Mười, về phong trào Cộng sản Quốc tế và một số bài giảng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc...
Vừa qua, tại tỉnh Nghệ An, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Tỉnh ủy Nghệ An tổ chức Hội thảo khoa học “Đồng chí Phan Đăng Lưu với cách mạng Việt Nam và quê hương Nghệ An” nhân kỷ niệm 120 năm ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu. Giáo sư - Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương khẳng định, bằng những hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, với những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí Phan Đăng Lưu đã góp phần làm rạng danh cho quê hương, đất nước. |
Tháng 3-1937, Xứ ủy Trung kỳ phân công đồng chí tổ chức Đại hội Báo chí Trung kỳ tại Huế, đồng chí đã định hướng các nhà báo thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm lúc bấy giờ. Được Đảng giao hoạt động công khai và bán công khai, đồng chí đã cùng một số trí thức yêu nước mua lại tờ báo Sông Hương và chuyển thành Sông Hương tục bản, do đồng chí trực tiếp chỉ đạo nội dung và viết các bài xã luận, bình luận, tiểu phẩm. Sông Hương tục bản trên thực tế đã trở thành cơ quan ngôn luận của Xứ ủy Trung kỳ.
Năm 1938, Báo Dân - cơ quan những người cấp tiến Xứ ủy Trung kỳ ra đời do đồng chí Phan Đăng Lưu phụ trách, kết hợp chặt chẽ với các đại biểu tiến bộ trong Viện Dân biểu và phong trào cách mạng của quần chúng, tạo nên sức mạnh to lớn trong việc chống sưu cao thuế nặng, chống áp bức bất công, đòi tự do ngôn luận, đặc biệt là đánh bại dự án thuế thân, thuế điền thổ của Tòa Khâm sứ Trung kỳ. Sau khi báo Dân bị đình bản, đồng chí cho ra lần lượt các tờ báo: Dân Tiến, Dân Muốn…
Trong những năm 1936 - 1939, đồng chí thường xuyên tổ chức các lớp học với nhiều trình độ khác nhau để tạo điều kiện cho lớp trẻ, bạn bè, đồng chí học tập, tích cực đọc các sách báo tiến bộ, bỏ lối học suông, học gắn với hành. Đồng chí luôn ân cần chỉ bảo cho mọi người: “Hãy tìm sách mà đọc, tìm thầy mà học, để làm người hữu ích, để cứu giống nòi, xây dựng đất nước”.
HỒNG LÊ (tổng hợp)