.

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 115 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Thị Thập (10-10-1908 - 10-10-2023) - Người con ưu tú của quê hương Tiền Giang

Cập nhật: 13:31, 04/10/2023 (GMT+7)

(ABO) Hướng tới Kỷ niệm 115 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Thị Thập (10-10-1908 - 10-10-2023), Báo Ấp Bắc trân trọng giới thiệu Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 115 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Thị Thập (10-10-1908 - 10-10-2023) - Người con ưu tú của quê hương Tiền  Giang. Tài liệu do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang biên soạn.

Bà Nguyễn Thị Thập (1908 - 1996) - người con ưu tú của quê hương Tiền Giang đã trọn đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng phụ nữ và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội dân chủ nghĩa. Bà là Hội trưởng Hội Phụ nữ Việt Nam (nay là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) từ năm 1956 - 1974, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa III (1961 - 1971), khóa IV (1971 - 1975), khóa VI (1976 - 1981).

Bà Nguyễn Thị Thập.
Bà Nguyễn Thị Thập.

Với những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng, bà Nguyễn Thị Thập vinh dự được trao tặng Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và Huân chương Sao Vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta; đồng thời, được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" và nhiều phần thưởng cao quý khác.

Bà Nguyễn Thị Thập tên thật là Nguyễn Thị Ngọc Tốt, được sinh ra trong một gia đình nông dân, có truyền thống yêu nước tại xã Long Hưng, huyện Châu Thanh, tỉnh Tiền Giang.

Kế thừa truyền thống của gia đình, của quê hương, bà giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Năm 1928, bà Nguyễn Thị Thập tham gia Nông hội đỏ tại địa phương, với nhiệm vụ thông tin liên lạc.

Ba năm sau, bà thoát ly gia đình, lên Sài Gòn hoạt động cách mạng, thâm nhập cuộc sống công nhân, thợ thuyền, những người lao động nghèo khổ để tuyên truyền giác ngộ và xây dựng cơ sở cách mạng ở thành phố Sài Gòn và các tỉnh: Mỹ Tho, Tân An, Bến Tre, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Từ đây bà lấy bí danh là Mười Thập.

Tháng 4-1935, bà Nguyễn Thị Thập được bầu làm Ủy viên Xứ ủy Nam Kỳ. Sau đó không lâu, bà bị thực dân Pháp bắt giam tại Khám Lớn - Sài Gòn. Bị tù đày, tra tấn dã man của kẻ thù nhưng không làm lay chuyển được ý chí gang thép của người nữ chiến sĩ cộng sản. Trong những năm 1935 - 1936, ở Pháp, Mặt trận Bình dân lên nắm chính quyền, chế độ dân chủ được mở rộng, sự hà khắc đối với các nước thuộc địa cũng được nới lỏng hơn, bà và một số tù nhân chính trị chưa thành án được trả tự do.

Theo sự điều động của cấp trên, bà trở về quê hương tiếp tục tuyên truyền, giáo dục xóa bỏ hủ tục mê tín dị đoan, lề thói lạc hậu ở nông thôn, tuyên truyền lý tưởng cách mạng, qua đó xây dựng cơ sở cách mạng ở khắp các tỉnh Mỹ Tho, Tân An, Bến Tre, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Sa Đéc,...

Ở Mỹ Tho, bà cùng với các đồng chí cách mạng thường xuyên tập hợp thanh niên trong xã Long Hưng tuyên truyền lý tưởng cách mạng, vạch trần tội ác thực dân Pháp và bọn cường hào ác bá, nhằm gây dựng, phát triển lực lượng cách mạng. Xã Long Hưng trở thành nơi lực lượng cách mạng phát triển mạnh nhất của tỉnh Mỹ Tho.

Năm 1937, bà lãnh đạo nhân dân Long Hưng đấu tranh chống thuế thân. Cuộc đấu tranh diễn ra rất quyết liệt, địch tập trung đàn áp, bà bị chúng bắt giam 6 tháng tại khám đường Mỹ Tho. Ra tù, bà tiếp tục công tác vận động quần chúng, củng cố và phát triển cơ sở.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Thực dân Pháp ra sức vơ vét nhân lực, tài lực phục vụ chiến tranh. Sưu cao thuế nặng, vật giá leo thang, nhân dân ngày càng khốn khổ. Ở Mỹ Tho, chúng cấm các tổ chức quần chúng hoạt động, ruồng bắt thanh niên đưa sang Pháp hoặc đưa ra biên giới đánh quân Xiêm (nay là Thái Lan). Nhân dân vô cùng căm tức bọn thực dân và tay sai, chỉ mong có cuộc nổi dậy.

Nắm được nguyện vọng của quần chúng, bà thường xuyên tuyên truyền, vận động quần chủng ủng hộ cách mạng và tham gia nổi dậy. Truyền đơn của Đảng kêu gọi đồng bào đoàn kết dưới ngọn cờ Mặt trận Thống nhất Dân tộc Phản đế Đông Dương, đứng lên cứu lấy Tổ quốc,... được bà chuyển từ tay người này đến người khác, từ xóm ấp này đến xóm ấp khác.

Trong một lần rải truyền đơn, quyên góp lương thực và tài chính để hoạt động và mua vũ khí, bà bị địch bắt. Khi biết được, hàng trăm người dân của xã Long Hưng tay mác, tay giáo xông tới đòi bắt tên Trần Chánh, một tên mật thám Mỹ Tho, khiến tên này và đám lính bỏ chạy, bà được giải thoát.

Năm 1940, địch ra sức khủng bố, nhân dân đòi bạo động đánh Pháp. Tỉnh ủy Mỹ Tho quyết định lấy rừng Ba U làm căn cứ, tổ chức nhiều hội nghị ở nhiều nơi khác nhau trong tỉnh, bản việc chuẩn bị khởi nghĩa ở Mỹ Tho, thành lập Ủy ban Khởi nghĩa. Bà Nguyễn Thị Thập được giao nhiệm vụ phụ trách Lực lượng vũ trang của tỉnh. Từ tháng 8 đến tháng 11-1940, bà tích cực tổ chức vận động các địa phương trong tỉnh luyện tập, chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa lớn. Khi có lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy, Lực lượng vũ trang và nhân dân Mỹ Tho làm một cuộc “tiến công lên trời”, Cờ đỏ sao vàng (sau này trở thành quốc kỳ của nước ta) lần đầu tiên được xuất hiện ở đình Long Hưng - nơi được chọn làm tổng hành dinh cách mạng của cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Tho.

Cuộc khởi nghĩa thành lập được chính quyền công - nông, tuy tồn tại không lâu, do thực dân Pháp trở lại đàn áp khốc liệt, nhưng chính quyền đã thực thi chính sách đại đoàn kết dân tộc, khắc sâu dấu ấn đặc biệt trong ký ức của người dân Mỹ Tho và hình ảnh người đảng viên Nguyễn Thị Thập tuy mang thai nhưng vẫn thắt khăn nịt bụng, chỉ huy lực Lượng vũ trang xông vào chiếm đồn bót, trương biểu ngữ, trương cờ. Bị kẻ thù truy nã khắp nơi, kèm nhiều tiền thưởng cho ai bắt được nhưng bà được cán bộ, nhân dân Mỹ Tho và Nam Bộ yêu thương che chở an toàn.

Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, địch ra tay đàn áp nhân dân, khủng bố, bắt giam những người yêu nước. Chồng bà, ông Lê Văn Giác bị địch bắt và xử tử hình. Nén đau thương, bà trở lại quê nhà Long Hưng - cái nôi của cuộc khởi nghĩa để gây dựng lại cơ sở cách mạng và tiếp tục xây dựng cơ sở quần chúng ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Đầu tháng 8-1945, bà được cử đi dự Đại hội Quốc dân tại Khu căn cứ Tân Trào (tỉnh Tuyên Quang). Do đường sá xa xôi, nên khi tới Hà Nội thì Đại hội đã kết thúc và cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám giành được thắng lợi. Ở Hà Nội, bà được Tổng Bí thư Trường Chinh giao trọng trách là cùng với phái viên Trung ương tiến hành việc thống nhất Đảng bộ Nam Bộ.

Cuối tháng 8-1945, bà về đến Mỹ Tho, thực hiện thành công việc thống nhất tổ chức Đảng bộ Nam Bộ. Trong cuộc bầu cử Quốc hội ngày 6-1-1946, bà Nguyễn Thị Thập trúng cử đại biểu Quốc hội đơn vị tỉnh Mỹ Tho và được đi dự cuộc họp Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bà Nguyễn Thị Thập trò chuyện cùng các đại biểu phụ nữ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960).
Bà Nguyễn Thị Thập trò chuyện cùng các đại biểu phụ nữ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (9-1960).

Tháng 11-1946, bà trở về Nam Bộ với nhiệm vụ do Chủ tịch Hồ Chí Minh giao phó là tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng và củng cố Đảng bộ Nam Bộ vững mạnh.

Từ năm 1947 đến năm 1952, bà là Hội trưởng Hội Phụ nữ cứu quốc Nam Bộ. Với nhiều phong trào cứu quốc, phụ nữ Nam Bộ đã góp phần quan trọng vào thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta. Năm 1953, bà được Trung ương điều ra miền Bắc. Sau khi Hiệp định Giơnevơ (20-7-1954) ký kết, bà được cử vào miền Nam phổ biến việc thi hành Hiệp định đình chiến.

Tháng 5-1954, người con trai lớn của bà (Xã đội trưởng liên xã Long Hưng - Đông Hòa) đã dũng cảm hy sinh trong một trận càn của giặc. Sau này, người con trai thứ hai của bà cũng anh dũng ngã xuống trên quê hương giàu truyền thống cách mạng. Bà đã biến đau thương thành sức mạnh, tiếp tục hoạt động cách mạng.

Năm 1955, bà trở ra miền Bắc theo diện cán bộ miền Nam tập kết. Bà được bầu làm Hội trưởng Hội Phụ nữ Việt Nam (nay là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) từ năm 1956 - 1974, Bí thư Đảng đoàn Phụ nữ kiêm Trưởng ban Phụ vận Trung ương. Bà cùng với tập thể lãnh đạo của Trung ương Hội đề ra những chủ trương rất sáng tạo, dấy lên nhiều phong trào thi đua sôi nổi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đặc biệt phong trào “Phụ nữ ba đảm đang" có sức lan tỏa, lôi cuốn toàn thể phụ nữ từ thành thị đến nông thôn hăng hái tham gia để chồng con yên tâm chiến đấu ngoài mặt trận.

Nhờ vậy, hậu phương lớn miền Bắc đã đáp ứng cho tiền tuyến lớn miền Nam theo đúng tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Với thành tích đạt được, phong trào “Phụ nữ ba đảm đang” được Bác Hồ, Trung ương Đảng và Chính phủ tặng danh hiệu “Phụ nữ Việt Nam, dũng cảm, đảm đang chống Mỹ, cứu nước”. Phong trào được nhiều nước trên thế giới biết đến.

Với cương vị là Hội trưởng Hội Phụ nữ Việt Nam, bà Nguyễn Thị Thập luôn dành nhiều thời gian để đến với các cấp Hội, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của chị em để kiến nghị với Đảng và Nhà nước đề ra những chính sách bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và trẻ em, trong đó có việc xây dựng Luật Hôn nhân và Gia đình. Bà rất tâm huyết trong công tác bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ nữ, nhờ đó phong trào phụ nữ ngày càng phát triển.

Bên cạnh những chức vụ quan trọng kể trên, bà Nguyễn Thị Thập còn được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam từ khóa II đến khóa IV (1951 - 1981), Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa III (1964 - 1971), khóa IV (1971 - 1975), khóa VI (1976 - 1981).

Năm 1996, bà Nguyễn Thị Thập từ trần, thọ 88 tuổi. Trong Điếu văn, Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh đã nhấn mạnh: “Gần 70 năm tham gia cách mạng, hơn 60 năm chiến đấu liên tục trong đội ngũ của Đảng, được Đảng và Nhà nước giao nhiều trọng trách, bà là một cán bộ có nhiều cống hiến xuất sắc đối với phong trào cách mạng, phong trào phụ nữ Việt Nam và phong trào phụ nữ thế giới. Bà là một cán bộ gương mẫu với nhiều phẩm chất cao quý trung thực, thẳng thắn, sống giản dị, tiết kiệm, thương yêu, gần gũi đồng chí, đồng bào”.

Cuộc đời cách mạng kiên trung, anh dũng, bất khuất của bà Nguyễn Thị Thập trở thành tấm gương sáng ngời để các thế hệ học tập noi theo. Bà mãi mãi là niềm tự hào của Đảng bộ và nhân dân Tiền Giang. Chúng ta sẽ tiếp tục phát huy truyền thống Nam Kỳ khởi nghĩa, Ấp Bắc oai hùng... để xây dựng tỉnh Tiền Giang ngày càng phát triển giàu đẹp.



 

.
.
.