Khởi nghĩa Nam kỳ ở Mỹ Tho:Dấu ấn sâu sắc về chế độ dân chủ
Ngày 1-9-1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Pháp là một nước tham chiến, nên ra sức bảo vệ Đông Dương - thuộc địa giàu có của nước Pháp. Trong bối cảnh ấy, Hội nghị Trung ương lần 6 vào tháng 11-1939 khẳng định: Làm cách mạng giải phóng dân tộc bằng hình thức “bạo động” để giành chính quyền.
Từ ngày 21 đến 27-7-1940, đồng chí Tạ Uyên triệu tập Hội nghị toàn xứ tại nhà bà Lê Thị Lợi (Năm Dẹm) ở ấp Tân Thuận, xã Tân Hương, quận Châu Thành (tỉnh Mỹ Tho), với sự tham gia của 24 đại biểu thuộc 19/21 tỉnh, thành Nam kỳ.
Đồng chí Phan Đăng Lưu, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng đến dự và chỉ đạo hội nghị. Hội nghị đề ra những việc cần kíp như: Kiện toàn cơ quan lãnh đạo Đảng ở các cấp; phát triển các đoàn thể quần chúng trong Mặt trận Phản đế, tiến tới thành lập Mặt trận Phản đế toàn xứ; tổ chức lực lượng du kích, mua sắm vũ khí và luyện tập quân sự; đẩy mạnh công tác vận động binh lính; bàn nhiệm vụ khởi nghĩa giành chính quyền và thành lập chính quyền công nông binh…
Lễ hội truyền thống nhân kỷ niệm 39 năm Ngày Nam kỳ khởi nghĩa 23-11-1979. |
Tỉnh Mỹ Tho đang ráo riết chuẩn bị về mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa. Ngày 12-8-1940, tỉnh thành lập Ban Quân sự, do đồng chí Nguyễn Hữu Thường, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy làm Trưởng ban; có các bộ phận: Tham mưu, Quân báo, Phá hoại, Hậu cần. Đây là tỉnh thành lập lực lượng vũ trang sớm của cả nước.
Công tác tuyên truyền, vận động khởi nghĩa ở các quận Châu Thành, Cai Lậy, Chợ Gạo, An Hóa, Cái Bè được đẩy mạnh. Nhiều xã tổ chức mít tinh diễn thuyết, kêu gọi quần chúng đấu tranh chống khủng bố, chống bắt lính, chống sưu cao thuế nặng…
Nhiều địa phương đưa cán bộ, đảng viên cài vào hàng ngũ địch. 1 đồng chí Tỉnh ủy viên bị động viên đi lính, xây dựng nhiều nhân mối ở trại lính và hăng hái chuẩn bị khởi nghĩa (Cai Tốt). 1 người lính trong quân đội Pháp ủng hộ 4 khẩu súng, gồm 3 súng săn và 1 súng lục (Saint Etienne)…
Cuối tháng 9-1940, nhiều xã diễn tập khởi nghĩa như: Cẩm Sơn, Mỹ Hạnh Đông (quận Cai Lậy); Tam Hiệp, Long Hưng (quận Châu Thành)… Khu căn cứ Ba U (nay thuộc xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành) được Tỉnh ủy chia làm 3 khu: Mạc-xây (nơi sản xuất vũ khí), Pa-ri (nơi dự trữ lương thực, in ấn, may cờ) và Đà Lạt (nơi nhận chỉ thị và đón tiếp cán bộ từ ngoài vào). Các đội du kích phát triển rất nhanh (1).
Đầu tháng 11-1940, Tỉnh ủy họp ở xã Thạnh Phú (quận Châu Thành) triển khai Nghị quyết tháng 10-1940 của Xứ ủy; kiểm tra tình hình chuẩn bị khởi nghĩa; tập trung lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền theo từng khu vực, tạo nên thế mạnh áp đảo, đánh chiếm cơ quan đầu não của địch ở thị xã, thị trấn, giành quyền làm chủ về tay nhân dân; bắt, xử tội những tên ác ôn, ổn định trật tự xã hội; tịch thu tài sản, ruộng đất của địa chủ chia cho dân nghèo.
Mệnh lệnh khởi nghĩa nêu rõ: 0 giờ ngày 23-11-1940 sẽ đồng loạt nổi dậy đánh chiếm các đồn, nhà việc, thị trấn, thị xã. Đình Long Hưng (xã Long Hưng, quận Châu Thành) được Ban Khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho chọn làm trụ sở. Tại đây, lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng được treo trên ngọn cây bàng trước sân đình. Khẩu hiệu “Việt Nam Dân chủ cộng hòa quốc” được treo tại mặt tiền ngôi đình.
Đêm 22 rạng ngày 23-11-1940, các xã trong tỉnh Mỹ Tho đồng loạt nổi dậy. Du kích, thanh niên, người già và phụ nữ tích cực tham gia vào đội quân khởi nghĩa. Nhân dân tỉnh Mỹ Tho sống trong không khí của một cuộc “tiến công trời”. 74 xã của tỉnh Mỹ Tho hừng hực không khí khởi nghĩa. Đặc biệt, các tầng lớp nhân dân trong xã hội đều tham gia, không chỉ bần nông, trung nông, phú nông, thợ thủ công, tiểu chủ, mà cả trí thức (250 người), địa chủ (77 người), hội tề (212 người)… cũng tham gia.
Khi khởi nghĩa nổ ra, đồng chí Nguyễn Thị Thập cho liên lạc đến các xã truyền lệnh khởi nghĩa và huy động nhân dân đồng loạt nổi dậy. Khu vực Tam Hiệp do đồng chí Nguyễn Thị Thập chỉ huy có lực lượng tự vệ mạnh.
Sau khi tổ chức khởi nghĩa tại xã Thân Cửu Nghĩa và xã Long An, Ủy ban Khởi nghĩa đưa lực lượng đến xóm Nhơn Huề, xã Tam Hiệp phối hợp với lực lượng tại chỗ đánh trống, mõ, đốt khí đá bao vây bót Chợ Bưng. Lúc đầu lính kháng cự, nhưng đến 8 giờ sáng bọn chúng bỏ chạy, quân khởi nghĩa chiếm bót, bắt 5 tên, thu 6 súng.
Lính thủ hộ và mật thám trên đường tuần tra được tin chạy đến ứng cứu, giải thoát 5 lính và bắn bị thương 2 tự vệ ta (có đồng chí Khanh, Bí thư chi bộ). Quyền làm chủ các xã: Thân Cửu Nghĩa, Tam Hiệp, Long An... thuộc về nhân dân.
Theo chỉ đạo của Tỉnh ủy, cánh quân do đồng chí Nguyễn Thị Thập chỉ huy rút về đình Long Hưng để bảo vệ chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho. Hình ảnh đồng chí Nguyễn Thị Thập - người phụ nữ bụng mang dạ chửa, lấy khăn rằn nịt bụng, chỉ huy lực lượng tự vệ xông vào chiếm đồn, đánh bót anh dũng, hiên ngang và oanh liệt vô cùng. Đồng chí xuất hiện như một dũng tướng xông pha trận mạc tạo sự nể phục, yêu mến của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân tỉnh Mỹ Tho.
Ngày 23-11-1940, tại đình Long Hưng, chính quyền cách mạng tỉnh Mỹ Tho ra mắt nhân dân. Đồng chí Phan Văn Khỏe, Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho, Trưởng ban Khởi nghĩa được cử làm Chủ tịch; đồng chí Nguyễn Thị Thập phụ trách Thường trực Ủy ban Cách mạng; đồng chí Nguyễn Văn Thường phụ trách quân sự…
Việc làm đầu tiên của Ủy ban Cách mạng tỉnh Mỹ Tho là thành lập Tòa án nhân dân tỉnh Mỹ Tho để xét xử bọn tay sai ác ôn. Đây là lần đầu tiên ở Nam kỳ và cũng là lần đầu tiên trong cả nước Tòa án nhân dân cấp tỉnh được thành lập.
Hội đồng Tòa án nhân dân tỉnh Mỹ Tho gồm các ông: Nguyễn Hữu Thường (Trưởng ban Quân sự tỉnh Mỹ Tho), Lê Văn Quới (Quận ủy viên Châu Thành), Lê Văn Giác (Bí thư Chi bộ xã Long Hưng), Đặng Văn Hiệp, Trương Văn Ty... Riêng đồng chí Nguyễn Thị Thập (Thường trực Ủy ban lãnh đạo khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho) là phái viên của Tỉnh ủy Mỹ Tho làm nhiệm vụ biện hộ.
Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh đóng tại đình Long Hưng. Hội đồng xét xử thường tổ chức các phiên tòa xét xử lưu động tại các xã ở quận Châu Thành và quận Cai Lậy. Nhiều vụ án được xét xử kịp thời, như vụ án tên Hương quản Sâm ở xã Long Định, quận Châu Thành (2).
Nhiều đối tượng phản động, chống phá cách mạng bị cảnh cáo nghiêm khắc qua những phiên tòa xét xử công khai, với sự tham dự của đông đảo quần chúng nhân dân.
Tòa án nhân dân tỉnh Mỹ Tho cảm hóa các đối tượng lầm đường lạc lối như: Cai Vi ở xã Vĩnh Kim, Cai Trí ở xã Long Hưng, Bếp Khương đồn Tam Hiệp… Hội đồng Tòa án luận tội Cai Trí, Bếp Khương về hành vi đi lính, làm tay sai cho giặc Pháp áp bức nhân dân. Các bị cáo nhận thức được tội lỗi và được nhân dân tha chết.
Trong 3 đêm làm việc, Tòa án nhân dân tỉnh Mỹ Tho xét xử gần 10 phiên. Trong các phiên xử, nhân dân và đồng chí “bào chữa viên” đều thống nhất xin Hội đồng xét xử tha chết cho các bị cáo và đã được Hội đồng xét xử chấp thuận.
Việc làm của Toà án nhân dân tỉnh Mỹ Tho tuy chưa nhiều nhưng để lại trong lòng nhân dân dấu ấn sâu sắc về tính nhân văn của cách mạng. Hầu hết các bị cáo sau này chẳng những không cộng sự với địch mà tích cực ủng hộ cách mạng trong kháng chiến.
Hội đồng Tòa án tỉnh căn cứ vào chính sách cụ thể của Xứ ủy Nam kỳ đề ra trong cuộc khởi nghĩa: “Khoan hồng với người lầm lạc; Bảo vệ quyền lợi nhân dân; Tôn trọng tự do tín ngưỡng; Hủy bỏ các khế ước giao kèo có tính chất áp bức bóc lột; Tịch thu địa bạ của bọn địa chủ phản động để luận tội và kết án”.
Hoạt động xét xử công khai của Tòa án nhân dân tỉnh có sự tham dự của đông đảo quần chúng nhân dân và lần đầu tiên nhân dân trực tiếp tham gia luận tội, thể hiện tính dân chủ của cách mạng. Các phiên tòa diễn ra như buổi huấn luyện chính trị, có tác dụng tốt và ảnh hưởng lâu dài đến thời kỳ kháng chiến sau này.
Trong khởi nghĩa Nam kỳ, tỉnh Mỹ Tho là 1 trung tâm ở Nam kỳ, nơi chính quyền cách mạng tỉnh tồn tại lâu nhất, nơi địch khủng bố ác liệt nhất (3). Cuộc khởi nghĩa ở tỉnh Mỹ Tho là cuộc tổng diễn tập toàn diện, để trong Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, tỉnh Mỹ Tho là nơi giành chính quyền sớm của cả nước (4).
Cuộc khởi nghĩa ở tỉnh Mỹ Tho sản sinh ra chính quyền cách mạng ở tỉnh và một số xã. Mặc dù chính quyền cách mạng chỉ tồn tại hơn 40 ngày, nhưng kết quả mà chính quyền cách mạng đem lại trong thực hiện quyền dân sinh, dân chủ đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng nhân dân tỉnh Mỹ Tho về một chế độ dân chủ.
Thành công của cuộc khởi nghĩa ở tỉnh Mỹ Tho có vai trò và công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Thị Thập - người chỉ huy lực lượng vũ trang giành quyền làm chủ cho nhân dân. Tinh thần chiến đấu quật cường của đồng chí Nguyễn Thị Thập luôn nhắc nhở chúng ta nêu cao tư tưởng tiến công cách mạng, ý chí kiên định và triệt để cách mạng, luôn đặt lợi ích của Đảng, cách mạng và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp vẻ vang của Đảng, của dân tộc.
LÊ VĂN TÝ
(1) Đến tháng 10 năm 1940, tỉnh Mỹ Tho có trên 3.000 du kích được huấn luyện bài bản. Cả tỉnh có 114 xã thì có 70 chi bộ, với 456 đảng viên, tăng gấp 8 lần so với tháng 2-1939.
(2) Trên đường về nhà, tên Hương quản Sâm bị nhân dân tự phát hiện giết chết. Họ nói rằng: “Thằng này mà không triệt thì sau này nó sẽ giết chúng ta, ít nhất cũng hàng trăm người”. Hồi ký Nguyễn Thị Thập - Từ đất Tiền Giang, NXB Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, năm 1986. tr: 165
(3) Đến cuối tháng 12-1940, ở tỉnh Mỹ Tho thực dân Pháp đã bắt giam tù 2.981 người trong tổng số 6.000 người của toàn Nam kỳ. Gò Me - nơi ghi lại tên tuổi của 4 vị anh hùng: Lê Văn Giác, Nguyễn Văn Ghè, Lê Văn Quới và Nguyễn Hữu Huân tuẫn tiết. Tại chợ Giữa của xã Vĩnh Kim - nơi địch gieo nhiều tội ác, đặc biệt là vụ ném bom thảm sát, làm chết và bị thương hơn 100 người vào ngày 3-12-1940.
(4) Lịch sử Đảng bộ tỉnh Tiền Giang (1927 - 1954) tập I, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2010, tr: 186. “Tỉnh Mỹ Tho khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân ngày 18-8-1945”.