Vụ đông xuân và nỗi lo việc tiêu thụ lúa gạo
Giá giảm thấp cùng với việc tiêu thụ sẽ gặp nhiều khó khăn là nhận định được đưa ra ngay trước thời điểm chuẩn bị thu hoạch vụ lúa đông xuân 2014-2015. Điều đáng nói đây là vụ sản xuất lúa chính của cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), với năng suất và chất lượng gạo tốt nhất so với các vụ còn lại và đáp ứng được tiêu chuẩn xuất khẩu.
GIÁ LÚA GẠO BẮT ĐẦU GIẢM
Thông tin chính thức từ Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) ngày 2-2 cho thấy, giá lúa gạo tiếp tục giảm. Theo đó, giá lúa khô tại kho khu vực ĐBSCL loại thường từ 5.000 - 5.100 đồng/kg, lúa hạt dài từ 5.300 - 5.400 đồng/kg, giảm từ 100 - 150 đồng/kg so với 2 ngày trước đó. Trong khi đó, giá lúa tươi tại ruộng chỉ ở mức trên 4.000 đồng/kg.
Đi kèm với giá lúa, giá gạo nguyên liệu cũng giảm theo. Gạo nguyên liệu loại 1 làm ra gạo 5% tấm hiện chỉ từ 6.650 - 6.750 đồng/kg, gạo nguyên liệu làm ra gạo 25% tấm từ 6.300 - 6.400 đồng/kg. Điều này cũng phần nào dự báo tình hình tiêu thụ lúa đông xuân tới đây sẽ có nhiều khó khăn khi chuẩn bị vào mùa thu hoạch rộ.
Tình hình tiêu thụ lúa gạo tới đây được dự báo sẽ gặp nhiều khó khăn. Ảnh: Vân Anh |
Mặt bằng giá lúa hiện nay đã gần sát với giá thành sản xuất lúa vụ đông xuân 2014-2015 do Bộ Tài chính vừa công bố. Theo đó, giá thành sản xuất lúa bình quân vụ đông xuân 2014-2015 tại các tỉnh ĐBSCL là 3.417 đồng/kg. Trong đó, giá thành sản xuất lúa kế hoạch vụ đông xuân cao nhất tại Bến Tre 4.026 đồng/kg, tiếp đến là Tiền Giang 3.835 đồng/kg, Long An 3.702 đồng/kg, Trà Vinh 3.677 đồng/kg, Sóc Trăng 3.662 đồng/kg…
Giá thành sản xuất lúa thấp nhất là Kiên Giang 2.643 đồng/kg, Cà Mau 2.826 đồng/kg, Hậu Giang 2.979 đồng/kg. Bộ Tài chính cho biết, giá mua lúa định hướng là căn cứ vào mức giá thành sản xuất lúa kế hoạch vụ đông xuân 2014-2015. Các cơ quan có thẩm quyền, các doanh nghiệp (DN), cá nhân mua lúa với giá định hướng phải đảm bảo mức lãi tối thiểu cho người sản xuất lúa vụ đông xuân 2014-2015.
Tuy nhiên, người sản xuất lúa vụ đông xuân 2014-2015 có được mức lãi tối thiểu hay không lại là câu chuyện khác. Bởi, ở một diễn biến khác, tại Hội nghị tổng kết năm 2014 do VFA tổ chức gần đây đã đưa ra nhận định rằng, năm 2015 tình hình sẽ còn khó khăn hơn nên khả năng lượng gạo xuất khẩu không cao, vì cơ bản thế giới hiện vẫn đang thừa gạo.
Riêng giá xuất khẩu,VFA sẽ cố gắng điều tiết theo cung - cầu thị trường và theo giá thế giới; hướng dẫn DN mua bán với giá tốt nhất có thể để giữ giá, giúp nông dân có lãi. Theo VFA, với giá xuất khẩu gạo trung bình của năm 2014 đạt 500 USD/tấn gạo thơm, từ 430 - 435 USD/tấn gạo thường thì nông dân có lãi khoảng 30 - 40% so với năm 2013.
Tuy nhiên, với tình hình hiện tại năm 2015 chắc chắn giá còn giảm, vì thế thu nhập của người trồng lúa sẽ bị ảnh hưởng. Thực tế cho thấy, thị trường lúa gạo của Việt Nam đang bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố.
NHIỀU NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG
Theo phân tích từ các chuyên gia trong ngành, có rất nhiều nguyên nhân tác động đến diễn biến của thị trường lúa gạo gần đây. Theo ông Lâm Anh Tuấn, Giám đốc Công ty TNHH Lương thực Thịnh Phát, một trong những nguyên nhân chính là đến đầu tháng 2 Việt Nam vẫn chưa có hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung nào được ký kết, do vậy không thể dẫn dắt được giá lúa gạo trong nước mà phải theo quy luật cung cầu.
Thứ hai là, chắc chắn một điều khi Việt Nam bán gạo vào thị trường châu Phi sẽ đụng với kho gạo cũ của Thái Lan sẵn sàng bán ra với giá rẻ. Thái Lan vẫn còn tồn kho lớn nên vẫn quyết tâm bán gạo ra. Trong năm 2015 Thái Lan dự kiến bán ra khoảng 10 triệu tấn gạo. Trong khi đó mặt bằng chung, giá gạo của Việt Nam hiện tương đương với giá gạo của Pakistan.
Một khía cạnh nữa là thị trường châu Phi lại cần gạo giá rẻ do kinh tế còn khó khăn nên gạo của Pakistan, Ấn Độ giao về châu Phi thuận lợi hơn gạo của Việt Nam nhờ chi phí thấp hơn khoảng 20 USD/tấn. Do vậy, gạo của Việt Nam muốn tham gia được vào thị trường của châu Phi với điều kiện là có giá cạnh tranh.
Kế đến là biến động từ thị trường Trung Quốc. Những năm gần đây, Trung Quốc là thị trường lớn tiêu thụ gạo của Việt Nam, cả đường chính ngạch và tiểu ngạch. Số liệu của VFA cho thấy, xuất khẩu gạo tiểu ngạch của Việt Nam sang Trung Quốc trong năm 2014 khoảng 1,5 triệu tấn, nhưng thực tế có thể nhiều hơn.
Tuy nhiên, từ cuối năm 2014 đến nay xuất khẩu gạo tiểu ngạch sang Trung Quốc đã bị siết lại, mà chuyển dần sang tiêu thụ đường chính ngạch. Tổng hợp các yếu tố của thị trường tác động, năm 2015 xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ bị cạnh tranh quyết liệt và chắc chắn một điều là giá bán sẽ không cao.
Thực tế cũng cho thấy, lúc cao điểm gạo 5% tấm của Việt Nam được đẩy lên từ 430 - 450 USD/tấn nhưng hiện nay chỉ xoay quanh 365 USD/tấn.
ÁP LỰC ĐỐI VỚI CÁC DN XUẤT KHẨU
Thực trạng “lình xình” của thị trường lúa gạo không chỉ ảnh hưởng đến người trồng lúa mà còn đối với các DN kinh doanh, xuất khẩu gạo. Đây cũng là điều đương nhiên.
Trao đổi gần đây, ông Lê Thanh Khiêm, Phó Giám đốc Công ty Lương thực Tiền Giang nhận định: “Giao dịch trên thị trường lúa gạo thời gian qua rất thấp và dự báo xu hướng giá sẽ tiếp tục giảm do thị trường tiêu thụ thế giới giảm, nên giá trong nước cũng giảm theo. Nếu tình hình không có nhiều cải thiện, vụ đông xuân tới đây dự báo cũng gặp không ít khó khăn”.
Bởi thực tế cũng đã cho thấy là, hai đối tượng mua gạo của Việt Nam nhiều năm qua là các tập đoàn thương mại quốc tế và Chính phủ của các nước. Lẽ đương nhiên là các tập đoàn thương mại quốc tế phải lựa chọn những nơi nào bán gạo giá rẻ nhất mới mua và bán ở nơi nào có giá cao nhất để kiếm lợi nhuận, nên không có lý gì họ phải mua gạo của Việt Nam với giá cao hơn của Thái Lan từ 20 - 30 USD/tấn.
Còn Chính phủ các nước trước đây mua gạo theo hình thức đàm phán, sau này lại mua theo kiểu đấu thầu. Nếu nước nào chào giá gạo đấu thầu rẻ nhất thì họ mua. Cụ thể là Thái Lan vừa thắng thầu cung ứng gạo cho Philippines 300.000 tấn gạo nhờ giá đấu thầu rẻ hơn giá gạo của Việt Nam.
Trong khi đó gạo của Việt Nam trong 2 năm gần đây gặp khó do tồn tại kho gạo của Thái Lan và luôn là ẩn số vì không biết nước này xả hàng lúc nào. Do vậy, hiện nay hầu hết các DN cũng không có nhiều giao dịch. DN không dám ký hợp đồng với giá thấp hơn mặt bằng chung hiện nay vì chưa thể dự đoán được tình hình giá nguyên liệu gạo như thế nào.
“Chẳng hạn, giá nguyên liệu gạo IR50404 hiện nay khoảng 6.400 đồng/kg, mặc dù biết tới đây giá có thể giảm hơn. Nhưng có điều khó cho các DN là việc kinh doanh có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào giá phụ phẩm.
Chẳng hạn, giá cám hiện trên 5.000 đồng/kg, nhưng vào thu hoạch rộ có thể dưới 4.500 đồng/kg; tấm đang nằm ở mức 6.300 đồng/kg nhưng có khả năng rơi xuống dưới 6.000 đồng/kg. Do vậy, mặc dù giá nguyên liệu có thể giảm nhưng giá phụ phẩm cũng giảm nên giá gạo thành phẩm giảm không tương ứng. Nếu tính toán giữa giá thành so với giá bán, DN sẽ không có lợi nên không dám ký hợp đồng.
Thực tế cũng cho thấy, trong cả 3 vụ lúa của năm 2014 người nông dân đều có lãi nhưng hầu hết DN lại lỗ vốn. Từ đó, DN kinh doanh xuất khẩu gạo bắt đầu “nhát tay” hơn, không dám bán đoán như trước, nếu có bán chỉ bán có mức độ để nghe ngóng thị trường”-ông Lâm Anh Tuấn cho biết.
THẾ ANH