Thứ Năm, 10/03/2016, 18:05 (GMT+7)
.

Câu chuyện "bẻ kèo"

Một lần nữa câu chuyện “bẻ kèo” khi thực hiện mô hình Cánh đồng lớn lại xảy ra trong vụ lúa đông xuân 2015 - 2016. Công bằng mà nói, đây không phải là lần đầu tiên xảy ra tình trạng “bè kèo”. Bởi trước đó, ở rất nhiều vụ lúa đông xuân có triển khai chương trình bao tiêu sản phẩm thì có xảy ra tình trạng “bẻ kèo”, mặc dù tỷ lệ hàng năm có khác nhau.

Chẳng hạn như trong vụ đông xuân 2013 - 2014, trên địa bàn tỉnh có 14 doanh nghiệp (DN) tham gia thực hiện chủ trương liên kết sản xuất lúa, với nhiều hình thức liên kết khác nhau trên tổng diện tích sản xuất là 4.769 ha, với 19 xã tham gia, tập trung ở các huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Tân Phước, Châu Thành, Gò Công Đông…

Tuy nhiên, chỉ có 1.636 ha nằm trong diện liên kết được các DN thực hiện (chiếm 34%). Điểm đáng chú ý là chỉ có một vài DN thực hiện được 100% theo hợp đồng đã ký, các DN còn lại chỉ thực hiện được từ 2 - 65% theo hợp đồng liên kết, kể cả 6 DN không mua lúa theo như thỏa thuận ban đầu.

Khi tình trạng “bẻ kèo” xảy ra, có rất nhiều nguyên nhân được dẫn ra, tất nhiên điểm chính yếu vẫn là không đạt được thỏa thuận về giá thu mua lúa giữa nông dân và DN. Khi đề cập đến vấn đề này, nhiều câu hỏi được đặt ra: Nông dân “bẻ kèo” DN? Thương lái và “cò lúa” chống phá mô hình này? Nguyên nhân sâu xa vấn đề này như thế nào? Hay DN không thực hiện đúng cam kết theo như hợp đồng đã ký kết?.

lua
Tình trạng "bẻ kèo" diễn ra thường xuyên trong liên kết sản xuất lúa.

Thực hư câu chuyện “bẻ kèo” chắc chắn cần được các ngành, DN và người nông dân trực tiếp tham gia mổ xẻ. Nhưng rõ ràng cũng rất khó tìm tiếng nói chung để các hợp đồng liên kết sản xuất được thực hiện một cách bền chặt khi hàng loạt các câu hỏi chưa có lời giải thỏa đáng.

Nhìn ở khía cạnh khác, liên kết sản xuất không chỉ được đặt ra trên cây lúa mà đối với hầu hết các loại nông sản khác. Nhưng trên thực tế cho thấy, tỷ lệ sản phẩm được tiêu thụ thông qua hợp đồng của các loại nông sản trên địa bàn tỉnh cũng ở mức rất thấp.

Điều này được thể hiện khi đánh giá về hiệu quả thực hiện Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng được ban hành cách đây hơn 10 năm (vào năm 2002), Sở NN&PTNT cho biết, việc liên kết “4 nhà” trong tiêu thụ nông sản trên địa bàn tỉnh còn khiêm tốn, tỷ lệ tiêu thụ thông qua hợp đồng còn đạt thấp chỉ từ 2 - 3% sản lượng lúa, 0,3 - 1% cây ăn trái… Với hàng loạt nguyên nhân được đưa ra như: Tình trạng phá vỡ hợp đồng giữa DN và nông dân vẫn tiếp diễn; tập quán sản xuất nhỏ, cá thể; hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã, tổ hợp tác chưa cao…

Thực tế đã cho thấy rằng, hiện nay Nhà nước đã ban hành rất nhiều chủ trương để thực hiện liên kết sản xuất, đặc biệt là liên kết sản xuất trong nông nghiệp. Mới đây nhất là Quyết định số 62 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn chính thức có hiệu lực. Đây được xem là một trong những quyết định mang tính động lực nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông sản và thay thế Quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ trước đây.

Quyết định 62 có ý nghĩa quan trọng ở chỗ nó quy định chính sách ưu đãi đối với từng nhóm đối tượng cụ thể gắn với từng chính sách hấp dẫn hơn trước. Chẳng hạn đối với DN, được miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất khi được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất để thực hiện các dự án xây dựng nhà máy chế biến, kho chứa, nhà ở cho công nhân, nhà công vụ phục vụ cho dự án cánh đồng lớn.

Đối với tổ chức đại diện của nông dân cũng được miễn tiền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất khi được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê để thực hiện xây dựng cơ sở sấy, chế biến, kho chứa phục vụ cho dự án cánh đồng lớn; được hỗ trợ tối đa 30% trong năm đầu và 20% năm thứ 2 chi phí thực tế về thuốc bảo vệ thực vật, công lao động, thuê máy để thực hiện dịch vụ bảo vệ thực vật chung cho các thành viên.

Đối với nông dân, được hỗ trợ một lần tối đa 30% chi phí mua giống cây trồng có phẩm cấp chất lượng từ giống xác nhận trả lên để gieo trồng vụ đầu tiên trong dự án cánh đồng lớn; được hỗ trợ 100% kinh phí lưu kho tại DN, thời hạn tối đa là 3 tháng trong trường hợp Chính phủ thực hiện chủ trương tạm trữ nông sản, với điều kiện hộ nông dân cam kết thực hiện sản xuất và bán nông sản theo đúng hợp đồng đã ký và được cấp có thẩm quyền xác nhận...

Tất nhiên, kết quả thực hiện Quyết định số 62 của Thủ tướng Chính phủ cũng cần có thời gian, nhưng điều mong đợi là sẽ hiệu quả hơn so với Quyết định số 80 trước đó. Rõ ràng, thực tế chúng ta không thiếu các cơ chế chính sách, chỉ có điều là tính hiệu quả khi giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện.

Có một thực tế cũng cần xem xét là, tính pháp lý của các hợp đồng liên kết sản xuất dường như chưa được các bên tôn trọng. Ai cũng biết rằng, một khi chưa tìm được tiếng nói chung trong quá trình thực hiện thì những điều khoản trong hợp đồng liên kết là cơ sở để giải quyết. Nhưng dường như những điều cơ bản này nhiều năm qua vẫn chưa được các bên tham gia chú tâm.

Chỉ cần có một chút lợi ích hơn là một bên có thể đơn phương không thực hiện theo các điều khoản ghi trong hợp đồng, trong khi chế tài xử lý còn bỏ ngõ. Bởi thế, cách đây không lâu một lãnh đạo của Sở Công thương đã “lưu ý” với các DN là việc ký kết tiêu thụ lúa phải đi vào thực chất chứ không phải ký để đủ điều kiện làm thủ tục cấp phép xuất khẩu gạo.

Chính thực tế về liên kết sản xuất vừa qua cho thấy rằng, Nhà nước nói chung, ngành Nông nghiệp nói riêng đang tập trung xây dựng cánh đồng lớn, mô hình sản xuất lớn, hiện đại thì chắc chắn rằng cũng rất cần một “tư duy” lớn hơn. Điều này không chỉ cần đối với DN mà cả nông dân khi khi tham gia thực hiện.

MINH THANH

.
.
.