Mười năm ngắc ngoải cánh đồng lớn
Chương trình cánh đồng lớn (tiền thân là cánh đồng mẫu lớn) triển khai ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đến nay đã tròn 10 năm. Tuy nhiên, mô hình được xem là kiểu mẫu này lại ngày càng “teo tóp” qua từng năm. Nhiều chuyên gia, doanh nghiệp băn khoăn: nên “khai tử” hay vẫn tiếp tục mô hình này?
Số liệu mới nhất của Cục Trồng trọt thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho thấy, vụ đông xuân 2020-2021, diện tích thực hiện mô hình cánh đồng lớn ở vùng ĐBSCL - vựa lúa của cả nước - chỉ còn 160.000 héc ta, giảm 10.000 héc ta so với cùng kỳ. Đây cũng không phải là lần đầu mô hình cánh đồng lớn được ghi nhận “teo tóp”.
Theo ông Dương Văn Chín, nguyên Phó viện trưởng Viện lúa ĐBSCL, việc triển khai mô hình này ở ĐBSCL đến nay đã được 10 năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần tổng kết, đánh giá hiệu quả để quyết định có nên tiếp tục nữa hay không.
Cũng theo ông Chín, việc tổng kết, đánh giá hiệu quả cần có sự tham dự của tất cả các thành phần trong chuỗi mô hình, bao gồm địa phương, doanh nghiệp kinh doanh lương thực, hợp tác xã, nông dân... và cần trả lời câu hỏi: chương trình cánh đồng lớn có nên tiếp tục giai đoạn 2 hay không? “Nếu tất cả đồng thuận chương trình là vô ích thì phải “khai tử”, chứ không để kéo dài lê thê, không biết nó chết hay sống”, ông Chín nói.
“Ngàn” lý do thất bại
Theo ông Chín, nội hàm của cánh đồng lớn là gom đất liền canh để thực hiện cơ giới hóa, canh tác theo một quy trình chất lượng. “Đây là điều tốt”, ông nói, nhưng cho rằng thực tế không thực hiện được. “Ở tỉnh An Giang, tôi biết ban đầu địa phương ra chỉ tiêu diện tích cánh đồng lớn phải có quy mô ít nhất 300 héc ta. Thế nhưng, sau mấy năm không thành công, đã được điều chỉnh giảm còn 50 héc ta, vẫn không làm được”, ông dẫn chứng.
Sau 10 năm thực hiện, hàng loạt lý do dẫn đến phá vỡ mối liên kết giữa doanh nghiệp và người nông dân trong mô hình được xem là kiểu mẫu ở ĐBSCL đã xảy ra.
Ông Nguyễn Minh Toại, Giám đốc Sở Công Thương TP Cần Thơ, cho rằng cánh đồng lớn là thực hiện liên kết sản xuất, bao tiêu sản phẩm giữa doanh nghiệp và người nông dân, nhưng mối liên kết này rất dễ bị phá vỡ. “Ví dụ, lúa tới ngày này thu hoạch, thay vì doanh nghiệp bao tiêu đúng như cam kết, thì lại lùi thời gian thu hoạch 3-4 ngày. Lúc đó, lúa khô ngay trên đồng, người nông dân không đồng ý dẫn đến phá vỡ hợp đồng, nông dân mất lòng tin”, ông Toại nói. Ngược lại, cũng có trường hợp giá lúa thị trường khi thu hoạch tăng 200-300 đồng/ki lô gam, cao hơn giá doanh nghiệp cam kết bao tiêu cho nông dân, thì nông dân “bẻ kèo” bán bên ngoài, dẫn đến mối quan hệ liên kết thất bại.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, ông Phạm Thái Bình, Giám đốc Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (Cần Thơ), cho rằng thất bại của mô hình là do thiếu nguồn lực. “Ví dụ, xây dựng cánh đồng lớn quy mô 10.000 héc ta, tức có khoảng gần 100.000 tấn lúa khi thu hoạch, thì cần số vốn thu mua lúa cho nông dân là rất lớn, trong khi trong vòng 1-2 tháng, doanh nghiệp không thể tiếp cận được nguồn vốn đó”, ông nói.
Ngoài ra, theo ông Bình, với 10.000 héc ta diện tích bao tiêu, phải đầu tư rất nhiều cho hệ thống máy sấy lúa, kho chứa, phương tiện vận chuyển, trong khi doanh nghiệp bị hạn chế, thậm chí năng lực yếu, cũng là lý do phải bỏ cánh đồng lớn, quay lại hình thức “có tiền đến đâu thu mua xuất khẩu đến đó”.
Ông Chín lý giải rằng doanh nghiệp thực hiện quy mô quá lớn, ngoài việc phải chịu áp lực lớn về quản lý, bao tiêu sản phẩm cho nông dân, thì việc bị động về tiêu thụ hay nói cách khác phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường nhập khẩu là mấu chốt dẫn đến thất bại. Cho nên, họ quay lại cách làm truyền thống. “Ví dụ, doanh nghiệp khi có hợp đồng xuất khẩu mấy ngàn tấn thì liên hệ thương lái. Đưa ra yêu cầu chủng loại, số lượng, thời điểm giao nhận, thì thương lái cung cấp được ngay”, ông Chín nói. Với cách này, doanh nghiệp không phải chịu những áp lực như trên.
Trong bối cảnh mô hình cánh đồng lớn ngày một “teo tóp”, một số doanh nghiệp nhỏ thực hiện liên kết bao tiêu với quy mô vài chục héc ta, hoặc giới hạn từ 100-200 héc ta, lại khá thành công. Bởi, theo ông Chín, những đơn vị này đa phần cung cấp cho thị trường nội địa, số lượng tiêu thụ đã cố định. “Vấn đề là ở đầu ra, tức họ biết chắc giống lúa A hoặc B tiêu thụ ở đâu, sản lượng bao nhiêu, chất lượng ra sao. Từ đó, doanh nghiệp tổ chức sản xuất để cung cấp đúng địa chỉ nên họ thành công”, ông Chín cho biết.
Cánh đồng lớn khó lớn?
Gạo Việt Nam phần nhiều được tiêu thụ ở các quốc gia không yêu cầu quá khắt khe về chất lượng, đặc biệt, họ vẫn chấp nhận ăn “gạo chợ”.
Thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy trong tháng đầu năm 2021, gạo Việt Nam bán sang Philippines với khối lượng gần 170.000 tấn, chiếm 48,8% tổng lượng gạo xuất khẩu; sang Trung Quốc đạt gần 58.000 tấn, chiếm 16,6%... Đây là những thị trường yêu cầu không quá cao về chất lượng và chấp nhận gạo được gom từ nhiều nguồn khác nhau ở trong nước, miễn cùng chủng loại.
Trái lại, những thị trường yêu cầu khắt khe về chất lượng sản phẩm, tức phải được sản xuất trong một quy trình thực hành nông nghiệp tốt như mô hình cánh đồng lớn, thì khối lượng bán khá ít.
Cụ thể, trong tháng đầu năm 2021, gạo Việt Nam xuất sang Singapore chỉ 8.309 tấn, chiếm 2,4% lượng xuất khẩu; sang Úc 3.047 tấn; sang UAE 2.164 tấn; sang Mỹ 1.797 tấn...
Còn về phương thức mua bán, theo ông Chín, nhà nhập khẩu không chọn ký kết hợp đồng dài hạn với doanh nghiệp trong nước, mà mua theo từng hợp đồng khi có nhu cầu với đối tác có giá cạnh tranh nhất. “Bây giờ theo thị trường, họ xem gạo Việt, Thái, Ấn..., giá mỗi bên như thế nào trong cùng nhóm gạo, chỗ nào giá cạnh tranh họ mua, chứ không ký dài hạn”, ông cho biết.
Ông Bình cho rằng chủ thể quyết định trong thực hiện cánh đồng lớn là doanh nghiệp, tuy nhiên mô hình đang phụ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu. “Thực tế, đa phần doanh nghiệp không có được hợp đồng cố định lâu dài với đối tác, trong khi phải chịu rất nhiều áp lực về bao tiêu với nông dân nên rất khó”, ông Bình nói.
Theo ông Chín, nếu doanh nghiệp ký được hợp đồng dài hạn với nhà nhập khẩu nước ngoài, thì hoàn toàn có thể tổ chức vùng nguyên liệu đảm bảo chất lượng lẫn số lượng để thỏa mãn yêu cầu của nhà nhập khẩu. “Nếu có hợp đồng dài hạn, thì ngay cả khối lượng lớn hàng chục ngàn tấn doanh nghiệp vẫn làm được”, ông nói.
Việc xây dựng cánh đồng lớn phải là sự tự nguyện của doanh nghiệp dựa trên khả năng của từng đơn vị. “Khi xã hội phát triển, xu hướng tiêu dùng sản phẩm chất lượng, có truy xuất nguồn gốc rõ ràng là tất yếu. Do đó, dù muốn hay không, sớm hay muộn doanh nghiệp phải theo”, ông Chín nói. Theo ông, doanh nghiệp nào chủ động, tự nguyện đi trước sẽ tạo được uy tín và khi thị trường thay đổi sẽ thành công.
Ở giai đoạn trước mắt, theo ông Chín, Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích nhiều doanh nghiệp kinh doanh lương thực về nông thôn xây dựng vùng nguyên liệu với quy mô nhỏ nhưng hiệu quả. “Doanh nghiệp lớn hiện nay họ ít quan tâm nông nghiệp vì lợi nhuận không cao, cho nên cần có chính sách khích lệ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp về nông thôn”, ông Chín nhận định.
(Theo thesaigontimes.vn)