Chăm sóc sức khỏe trẻ em trong môi trường học đường
Môi trường học đường rất dễ làm lây lan và bùng phát các bệnh truyền nhiễm nếu như nguồn lây không được kiểm soát tốt. Nguyên nhân là do học sinh tập trung với mật độ đông và tiếp xúc gần.
Năm học mới đã bắt đầu, việc chủ động phòng tránh bệnh truyền nhiễm, nhất là các bệnh do vi rút như thủy đậu, tay - chân - miệng và đau mắt đỏ lây lan trong học đường là việc làm vô cùng cần thiết.
Môi trường học đường rất dễ bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm nếu không được kiểm soát tốt. |
BỆNH THỦY ĐẬU
Bệnh thủy đậu (dân gian hay gọi là bệnh trái rạ) do siêu vi Varicella Zoster Virus (VZV) gây nên. Đây là một bệnh rất dễ lây truyền qua đường hô hấp và tiếp xúc gần. Nhìn chung, đây là bệnh lành tính, nhưng một số trường hợp biến chứng nặng có thể dẫn đến tàn phế và tử vong nếu không được điều trị đúng và kịp thời.
Thông thường, bệnh thủy đậu sẽ bùng phát sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh từ 2 - 3 tuần. Bệnh thường xuất hiện đột ngột với triệu chứng nổi những mụn nước có đường kính từ l - 3 mm, chứa dịch trong ở vùng đầu, mặt, chi và thân. Các mụn nước này xuất hiện rất nhanh, trong vòng 12 - 24 giờ có thể nổi toàn thân. Người bị nhiễm bệnh có thể có từ vài mụn trái rạ cho đến hơn 500 mụn trên thân thể. Trường hợp bệnh nặng, mụn nước sẽ to hơn. Nếu vệ sinh không tốt, mụn nước sẽ bị nhiễm trùng và sẽ có màu đục do chứa mủ.
Bên cạnh việc bị nổi mụn nước, bệnh nhân mắc bệnh thủy đậu thường có các triệu chứng đi kèm như sốt nhẹ, biếng ăn ở trẻ nhỏ và sốt cao, đau đầu, đau cơ, nôn ói ở người lớn hay trẻ lớn. Thông thường, sau từ 1 tuần đến 10 ngày bệnh sẽ tự khỏi, các nốt rạ sẽ khô dần, bong vảy, thâm da nơi nổi mụn nước, không để lại sẹo, nhưng nếu bị nhiễm thêm vi trùng thì mụn nước có thể để lại sẹo. Mặc dù đây là một bệnh lành tính, không có triệu chứng nặng nề ngoài những mụn nước lan tràn, nhưng bệnh có thể có những biến chứng rất nguy hiểm.
Biến chứng nhẹ của bệnh là nhiễm trùng da nơi mụn nước. Trường hợp nặng hơn, vi trùng có thể xâm nhập từ mụn nước vào máu gây nhiễm trùng huyết. Các biến chứng nặng như viêm phổi, viêm não, viêm tiểu não... là các biến chứng có thể nguy hiểm đến tính mạng, hay để lại di chứng sau này. Đặc biệt, sau khi bệnh nhân đã khỏi bệnh, siêu vi thủy đậu vẫn còn tồn tại trong các hạch thần kinh dưới dạng bất hoạt (ngủ đông), khi có điều kiện thuận tiện (sức đề kháng cơ thể kém hay có yếu tố gì khác) thì siêu vi này sẽ tái hoạt động trở lại và gây ra san thương của bệnh Zona, có người còn gọi là giời leo.
Bệnh thủy đậu rất dễ dàng truyền nhiễm và lây lan qua sự đụng chạm đến ban ngứa từ người bị thủy đậu hoặc qua những giọt nước nhỏ trong không khí từ miệng hay mũi của người bị nhiễm. Bệnh cũng có thể lây lan qua sự tiếp xúc đến quần áo hoặc vải trải giường bị ô nhiễm bởi chất dịch từ ban ngứa hoặc từ miệng hay mũi của người bị bệnh. Người mang mầm bệnh thủy đậu có thể lây bệnh cho người khác từ 1 - 2 ngày trước khi cơ thể xuất hiện mụn nước, cho đến khi tất cả những vết phồng đã đóng vảy. Do đó bệnh thủy đậu rất dễ lây lan, nhất là ở môi trường có tiếp xúc gần như trường học.
BỆNH ĐAU MẮT ĐỎ
Tác nhân gây bệnh đau mắt đỏ có thể do vi trùng (phế cầu trùng, liên cầu trùng, tụ cầu trùng…), nhưng phổ biến nhất là do một loại vi rút có tên Adenovirus. Khi bị nhiễm bệnh, người bệnh sẽ bị viêm kết mạc, mắt đỏ có ghèn, chảy nước mắt, đôi khi có xuất huyết kết mạc. Bệnh nhân thường có những cảm giác ở mắt như nóng rát, đau, nặng mắt, cảm giác xốn như có hạt cát trong mắt, đôi khi kèm theo nhìn mờ, sợ ánh sáng. Ngoài các biểu hiện tại mắt, người bệnh có thể bị viêm họng, nổi hạch trước tai và sốt nhẹ. Bệnh có thể chỉ giới hạn ở một mắt, nhưng thường xảy ra ở hai mắt.
Do tác nhân chủ yếu của bệnh đau mắt đỏ là vi rút nên không có thuốc điều trị đặc hiệu. Hiện tại, chỉ có thể điều trị triệu chứng như dùng kháng sinh, giảm đau và tăng cường sức đề kháng cho người bệnh.
Ngay cả khi không điều trị, bệnh cũng có thể sẽ khỏi sau 7 - 14 ngày. Thường bệnh không để lại biến chứng. Tuy nhiên, do Adenovirus có ái tính với lớp liên bào giác mạc nên trong một số trường hợp có thể đưa tới biến chứng loét giác mạc hoặc viêm giác mạc chấm gây mờ mắt trong một thời gian. Những biến chứng này thường xảy ra ở người có thể trạng suy kiệt hoặc do dùng thuốc không đúng cách. Do đó, dù đây là bệnh phổ biến, có thể tự khỏi nhưng người bệnh cần phải cẩn trọng. Khi có những triệu chứng nặng như ghèn mủ xanh, nhìn mờ, sợ ánh sáng, người bệnh nên đến khám tại chuyên khoa mắt để được điều trị thích hợp.
Điều đặc biệt lưu ý là, người bệnh đau mắt đỏ không nên tự ý dùng lá cây đắp mắt theo cách chữa trị dân gian, vì ấu trùng giun trong lá có thể chui vào mắt gây biến chứng nặng nề cho mắt.
Bệnh này lây truyền qua sự tiếp xúc trực tiếp với nước bọt, các dịch tiết từ mắt, mũi của bệnh nhân hoặc qua đồ dùng cá nhân, khăn tay nhiễm nguồn bệnh, nước bị nhiễm khuẩn (ví dụ nước hồ bơi)…
BỆNH TAY - CHÂN - MIỆNG
Bệnh tay - chân - miệng (TCM) là bệnh truyền nhiễm do vi rút đường ruột gây ra, lây từ người sang người và dễ gây thành dịch. 2 nhóm tác nhân gây bệnh thường gặp là Coxsackievirus A16 (CA 16) và Enterovirus 71 (EV71). Bệnh TCM có biểu hiện là những tổn thương da, niêm mạc dưới dạng phỏng nước ở các vị trí đặc biệt như tên gọi (ở lòng bàn tay, lòng bàn chân, ở miệng), đôi khi xuất hiện ở mông, gối, khuỷu.
Bệnh TCM lây truyền qua đường tiêu hóa: Nước uống, thức ăn, bàn tay của trẻ hoặc của người chăm sóc trẻ, các đồ dùng, đặc biệt là đồ chơi và vật dụng sinh hoạt hằng ngày như chén, đĩa, muỗng, ly bị nhiễm vi rút từ phân hoặc dịch nốt phỏng, vết loét hoặc dịch tiết đường hô hấp, nước bọt. Thời điểm lây truyền của vi rút gây bệnh TCM là vài ngày trước khi phát bệnh, mạnh nhất trong tuần đầu của bệnh và có thể kéo dài vài tuần sau đó. Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, đặc biệt là ở nhóm dưới 3 tuổi. Các yếu tố sinh hoạt tập thể như trẻ đi học tại nhà trẻ, mẫu giáo; đến các nơi trẻ chơi tập trung là các yếu tố nguy cơ lây truyền bệnh trong các đợt bùng phát bệnh. Một đứa trẻ có thể nhiễm các chủng huyết thanh vi rút khác nhau trong cùng một mùa, do đó có thể bị bệnh TCM nhiều lần. Bệnh có thể gây nhiều biến chứng nguy hiểm như viêm não - màng não, viêm cơ tim, phù phổi cấp dẫn đến tử vong nếu không được phát hiện sớm, xử trí kịp thời. Các trường hợp biến chứng nặng này thường do týp EV71.
Theo khuyến cáo của ngành Y tế, để phòng tránh các bệnh truyền nhiễm lây lan và bùng phát thành dịch trong môi trường học đường, nhà trường và phụ huynh cần quan tâm đặc biệt đến việc chăm sóc sức khỏe của con trẻ. Tại gia đình, phụ huynh theo dõi sức khỏe của con, khi phát hiện con có dấu hiện sức khỏe bất thường thì đưa đến khám tại cơ sở y tế. Trẻ em mắc các bệnh truyền nhiễm tuyệt đối chăm sóc tốt và không cho trẻ đến trường trong thời gian yêu cầu cách ly của từng loại bệnh. Đối với trường học, giáo viên lưu ý sớm phát hiện trẻ mắc bệnh để cách ly kịp thời, tránh bệnh lây lan; thực hiện vệ sinh trường lớp thường xuyên; riêng các lớp bậc học mầm non, giáo viên cần lưu ý vệ sinh đồ chơi và phòng ốc bằng dung dịch sát khuẩn.
THỦY HÀ