.

Tìm giải pháp giải quyết tình trạng thiếu hàng trăm nghìn giáo viên

Cập nhật: 12:26, 29/08/2023 (GMT+7)

Sáng 29-8, tại buổi giao ban Báo chí của Ban Tuyên giáo Trung ương, Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Ngọc Thưởng đã báo cáo tình hình chuẩn bị năm học mới, trong đó có hàng loạt giải pháp giải quyết vấn đề thiếu giáo viên.

Theo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hậu Giang, năm học 2023 – 2024, toàn tỉnh thiếu gần 1.200 giáo viên các cấp học, nhiều nhất ở các môn như âm nhạc, mỹ thuật, tiếng Anh và tin học. Ảnh: Duy Khương - TTXVN
Theo Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Hậu Giang, năm học 2023 – 2024, toàn tỉnh thiếu gần 1.200 giáo viên các cấp học, nhiều nhất ở các môn như âm nhạc, mỹ thuật, tiếng Anh và tin học. Ảnh: Duy Khương - TTXVN

Cả nước còn thiếu hàng trăm nghìn giáo viên

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT), tính đến cuối năm học 2022 - 2023, cả nước còn thiếu 118.253 giáo viên mầm non, phổ thông so với định mức quy định của Bộ GD&ĐT.

Cụ thể, ở cấp mầm non thiếu 51.955 giáo viên, cấp tiểu học thiếu 33.112 giáo viên, cấp THCS thiếu 19.304 giáo viên, cấp THPT thiếu 13.882 giáo viên). So với năm học 2021 - 2022, số giáo viên còn thiếu tăng thêm 11.308 giáo viên.  

Phát biểu tại buổi giao ban, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng cho biết, nguyên nhân chính dẫn đến số giáo viên cấp học mầm non còn thiếu tăng nhiều là do số trẻ đến trường năm học 2022 - 2023 tăng thêm 132.245 trẻ so với năm học 2021 - 2022 (tương đương cần tăng thêm khoảng 5.500 giáo viên). Cấp tiểu học, tỉ lệ lớp học 2 buổi/ngày tăng 4,6% so với năm học 2021 - 2022 (tương đương tăng 10.811 lớp học 2 buổi/ngày, cần thêm khoảng 3.000 giáo viên). Cấp THPT tăng 669 lớp so với năm học 2021 - 2022 (tương đương cần tăng thêm khoảng 1.500 giáo viên).  

Ngoài ra, năm học 2022 - 2023 toàn quốc có số lượng giáo viên công lập nghỉ hưu và nghỉ việc nhiều (10.094 giáo viên nghỉ hưu và 9.295 giáo viên nghỉ việc). Giáo viên nghỉ việc chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế - xã hội phát triển, giáo viên có nhiều sự lựa chọn để chuyển đổi nghề nghiệp với mức thu nhập cao hơn.

Một số nguyên nhân khác được Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng nêu như: Tỷ lệ giáo viên/lớp trước năm 2015 thấp; Thiếu nguồn tuyển giáo viên một số môn học đặc thù; Sức hút vào ngành còn hạn chế; Việc tuyển dụng và tinh giản biên chế ở một số nơi còn bất cập, một số địa phương thực hiện tinh giản biên chế ở các địa phương còn cào bằng về tỷ lệ, chưa linh hoạt, còn cắt giảm cơ học số lượng người làm việc…

Năm học 2022 - 2023, cả nước tuyển mới được 17.208 giáo viên, chỉ bằng 61% so với chỉ tiêu biên chế được giao bổ sung theo Quyết định 72-QĐ/TW. Bên cạnh đó, toàn quốc còn 74.172 biên chế giáo viên được giao từ những năm trước những chưa tuyển được.

Để khắc phục tình trạng thiếu giáo viên, Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng cho biết, Bộ GD&ĐT đã phối hợp Bộ Nội vụ đề xuất giao bổ sung biên chế giáo viên. Trên cơ sở đề xuất, Bộ Chính trị đã bổ sung 65.980 biên chế giáo viên trong giai đoạn từ 2022 đến năm 2026, riêng năm học 2022 - 2023 giao bổ sung 27.850 biên chế giáo viên mầm non, phổ thông công lập.

Bộ GD&ĐT đang tập trung hướng tới việc củng cố, cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của giáo viên; ổn định cuộc sống giáo viên.

Bộ GD&ĐT phối hợp với Bộ Nội vụ tham mưu Chính phủ ban hành Nghị quyết số 102/2020/NQ-CP về giải pháp đối với biên chế sự nghiệp giáo dục và y tế, trong đó cho phép các cơ sở giáo dục được ký hợp đồng lao động (dưới 12 tháng) đối với các vị trí việc làm là giáo viên trong phạm vi số lượng biên chế viên chức được cấp có thẩm quyền giao và theo định mức quy định để kịp thời thay cho số giáo viên nghỉ thai sản, nghỉ hưu theo chế độ và để bố trí giáo viên dạy buổi thứ 2 trong ngày (đối với cơ sở giáo dục dạy 2 buổi/ngày).

Bộ GD&ĐT ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện tinh giản biên chế cho viên chức ngành Giáo dục, đã ban hành một số văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương thực hiện rà soát, sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông như: thông tư quy định về tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cho các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông; công văn hướng dẫn, chỉ đạo địa phương về việc dồn dịch điểm trường, sáp nhập các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông.

Bộ GD&ĐT chỉ đạo các cơ sở đào tạo giáo viên mở mã ngành đào tạo các môn học mới và các ngành đào tạo giáo viên dạy liên môn; tăng cường sự liên hệ, kết nối với cơ quan quản lý giáo dục và cơ sở giáo dục ở các địa phương nhằm xác định nhu cầu sử dụng giáo viên cụ thể theo từng trình độ, môn học, cấp học để có kế hoạch tuyển sinh và đào tạo, bồi dưỡng giáo viên một cách phù hợp, bảo đảm về số lượng, chất lượng và cơ cấu từng môn học, cấp học.  

Đồng thời, kiểm tra, rà soát công tác quản lý biên chế, tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và thực hiện chế độ chính sách đối với giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục của các địa phương.

Theo thống kê, từ năm học 2020 - 2021 đến hết năm học 2021 - 2022, các địa phương đã giải quyết được hơn 5.000 giáo viên dư thừa ở cấp tiểu học và THCS. Xây dựng cơ sở dữ liệu ngành giáo dục, đưa vào sử dụng, phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo của ngành từ năm 2019, làm cơ sở để tính toán số liệu thừa thiếu giáo viên của các địa phương trên toàn quốc.

Thứ trưởng Phạm Ngọc Thưởng cho biết, trong thời gian tới, Bộ GD&ĐT tiếp tục triển khai các giải pháp, gồm: Sửa đổi, bổ sung các quy định về định mức giáo viên/lớp; Thí điểm cơ chế tự chủ đối với cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục; Kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền về chế độ chính sách đối với nhà giáo để thu hút người giỏi vào làm giáo viên, giáo viên yên tâm công tác gắn bó với nghề, đảm bảo ổn định đội ngũ; Tiếp tục rà soát, sắp xếp mạng lưới trường lớp học; Chuẩn bị đủ nguồn tuyển giáo viên…

Đối với các địa phương, Bộ GD&ĐT đề nghị tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương trong việc giải quyết tình trạng thừa cục bộ và thiếu giáo viên. Đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông gắn với nâng cao chất lượng giáo dục.Tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành các chế độ, chính sách phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương nhằm thu hút và tạo điều kiện cho giáo viên yên tâm công tác tại các vùng khó khăn.

Kịp thời cung ứng sách giáo khoa  

Cũng tại buổi giao ban Báo cihs, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng cho biết, các nhà xuất bản và tổ chức liên kết phát hành đã chủ động xây dựng kế hoạch in và đảm bảo việc cung ứng đầy đủ sách giáo khoa đến học sinh và giáo viên trước thềm năm học mới 2023 - 2024 (dù còn một số địa phương chậm muộn trong việc cung cấp thông tin nhu cầu số lượng các bộ sách giáo khoa theo quy định.

Bộ GD&ĐT đã có 2 văn bản  đôn đốc các địa phương phối hợp chuẩn bị sách giáo khoa phục vụ năm học mới). Trong số 9 tổ chức biên soạn và phát hành sách giáo khoa, khoảng 72% thị phần thuộc về Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam, khoảng 22% thị phần thuộc về Công ty Cổ phần Đầu tư xuất bản - Thiết bị giáo dục Việt Nam (VEPIC).

Để phục vụ cho năm học 2023 - 2024, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam đã xây dựng kế hoạch in, tổ chức mua sắm dịch vụ in rộng rãi (đấu thầu rộng rãi). Đến ngày 27-8-2023, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam đã hoàn thành in và nhập kho sách các lớp như sau: đã hoàn thành in và nhập kho 100% kế hoạch sách giáo khoa các lớp 5, 9, 12 (theo Chương trình 2000); đã hoàn thành in và nhập kho 100% kế hoạch sách giáo khoa các lớp 1, 2, 3, 6, 7, 10 (theo Chương trình 2018) ; hoàn thành in và nhập kho gần 5 triệu bản sách giáo khoa lớp 4, 8, 11 mới phát sinh.

Cho đến nay, một số địa phương vẫn tiếp tục có những bổ sung nhỏ lẻ, Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam đang rất nỗ lực để in ấn và cung ứng đủ trước ngày khai giảng. Đối với Công ty VEPIC: Đến ngày 30/6/2023, đã in và nhập kho đầy đủ 100% số sách giáo khoa 1, 2, 3, 6, 7, 10 sản lượng dự kiến phát hành và 40% số sách giáo khoa các lớp 4, lớp 8, lớp 11 sản lượng dự kiến phát hành.

Hiện nay, sách giáo khoa các lớp 4, lớp 8, lớp 11 đã đầy đủ để kịp thời phục vụ năm học 2023 - 2024.

(Theo https://baotintuc.vn/giao-duc/tim-giai-phap-giai-quyet-tinh-trang-thieu-hang-tram-nghin-giao-vien-20230829102026062.htm)

.
.
.