Chủ Nhật, 05/11/2023, 20:08 (GMT+7)
.

Quy mô giáo dục đại học tăng nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế tri thức

Quy mô giáo dục đại học của nước ta có tăng nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế tri thức. Kinh phí đầu tư cho giáo dục đại học còn thấp.

Chiều 5-11, Hội thảo giáo dục năm 2023 về thể chế, chính sách nâng cao chất lượng giáo dục đại học (GDĐH) đã được tổ chức tại Hà Nội.

Thời gian qua, lĩnh vực GDĐH đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Quy mô GDĐH, công tác quản lý, quản trị đại học có bước phát triển và nhiều đổi mới.

Theo Bộ GD-ĐT, giai đoạn 2013-2021, số lượng cơ sở GDĐH tăng từ 207 trường lên 237 trường; quy mô đào tạo các trình độ giáo dục đại học trong giai đoạn này tăng từ 1.546.478 người lên 2.021.901 người, tỷ lệ tăng 30,7%. Nhiều trường đã tích cực, chủ động phát triển các chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận chuẩn quốc tế. Số lượng, trình độ, năng lực đội ngũ giảng viên các trường đại học được nâng lên. Tỷ lệ giảng viên có học vị tiến sĩ tăng từ 14,3% năm 2013 lên 31,2% năm 2021.

Số lượng giảng viên có trình độ sau đại học tăng từ 37.856 người ở năm 2013 lên 70.018 người ở năm 2021. Cơ sở vật chất của nhiều trường đại học được tăng cường. Một số trường được đầu tư các phòng thí nghiệm hiện đại, đáp ứng tốt nhiệm vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học. Các đại học, trường đại học hàng đầu của Việt Nam liên tục xuất hiện và tăng thứ hạng, giữ vị trí tốt trong các bảng xếp hạng đại học uy tín trên thế giới.

Tuy nhiên, trước sự vận động, phát triển không ngừng của KH-CN và tri thức nhân loại, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, GDĐH còn bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập cả về quy mô, cơ cấu ngành nghề và kỹ năng làm việc.

Thể chế, chính sách điều chỉnh lĩnh vực GDĐH còn có sự mâu thuẫn, thiếu thống nhất trong cách hiểu, vận dụng và hướng dẫn thi hành, đặc biệt là về thực hiện tự chủ đại học. Quy mô GDĐH của nước ta có tăng nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế tri thức. Kinh phí đầu tư cho GDĐH còn thấp. Chính sách xã hội hoá giáo dục chưa thực sự thu hút được nhiều các thành phần xã hội tham gia. Số lượng, cơ cấu, chất lượng đội ngũ giảng viên đại học chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao, nhất là về năng lực đổi mới sáng tạo. Công tác nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế còn chưa tương xứng với tiềm năng. Hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng GDĐH chưa được hoàn thiện.

Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu tại hội thảo.
Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu tại hội thảo.

Phát biểu tại hội thảo, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn nêu rõ, kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, trong quá trình thảo luận về kinh tế - xã hội, nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến lĩnh vực GDĐH, đặc biệt là vấn đề về thể chế, chính sách.

Trong thời điểm các cấp, các cơ quan trung ương đang tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản và toàn diện GD-ĐT, việc đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân, kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, vướng mắc trong thực tế nhằm đề xuất giải pháp tháo gỡ vướng mắc, đặc biệt là bất cập về thể chế, chính sách để tạo điều kiện cho GDĐH phát huy tối đa tiềm năng, sức sáng tạo trong đào tạo, cung cấp cho đất nước nguồn nhân lực có trình độ, chất lượng. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu được đề cập trong Nghị quyết 29 là hoàn thiện thể chế, chính sách nhằm nâng cao chất lượng GD-ĐT, trong đó có GDĐH.

Theo Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội, GDĐH có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Các trường đại học không chỉ là nơi đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng, trình độ cao, mà còn là nơi nuôi dưỡng và phát triển tri thức, tiềm lực KH-CN và đổi mới sáng tạo của đất nước, tạo động lực mới cho hội nhập, phát triển bền vững. Vì vậy, nâng cao chất lượng GDĐH là nhu cầu tất yếu và cấp thiết trong bối cảnh nền kinh tế tri thức.

Bên cạnh đó, thể chế, chính sách pháp luật được coi là yếu tố then chốt đóng vai trò định hướng, dẫn dắt, tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức, vận hành; là công cụ hữu hiệu để quản lý phát triển các hoạt động của từng lĩnh vực kinh tế - xã hội diễn ra theo đúng mục tiêu đã xác định.

“Nếu được ban hành kịp thời, đồng bộ, phù hợp, có tầm nhìn, khả năng dự báo thì thể chế, chính sách pháp luật sẽ góp phần “soi đường”, tạo động lực thúc đẩy lĩnh vực phát triển; ngược lại, sẽ gây ra những rào cản đối với sự đổi mới và phát triển”, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội nêu rõ.

(Theo sggp.org.vn)

.
.
.