Công tác bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp
Thủ tướng Chính phủ cho chủ trương để Tiền Giang thành lập 7 khu công nghiệp (KCN), hiện đã có 3 KCN đã đi vào hoạt động, trong đó: KCN Mỹ Tho, diện tích 79,14 ha, hiện đã lắp đầy 100%, đi vào hoạt động ổn định, với 27 doanh nghiệp (DN); KCN Tân Hương, với diện tích 197,33 ha, tỷ lệ lắp đầy khoảng 99,06%, hiện có 26 dự án đầu tư và hoạt động; KCN Long Giang có diện tích 540 ha, tỷ lệ lắp đầy khoảng 40%, hiện có 23 dự án đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư và đi vào hoạt động.
![]() |
Công ty TNHH VBL Tiền Giang (KCN Mỹ Tho) là một trong những DN được đánh giá chấp hành tốt việc BVMT thông qua việc đầu tư nâng cấp hệ thống xử lý nước thải từ loại C lên loại A, với vốn đầu tư khoảng 8 tỷ đồng vào năm 2008. (Ảnh: Lãnh đạo tỉnh tham quan hệ thống xử lý nước thải của Công ty TNHH VBL Tiền Giang). Ảnh: Thế Anh |
Thực hiện Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành, thời gian qua công tác BVMT tại các KCN luôn được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh cũng như sự phối hợp của các sở, ngành và địa phương nên công tác BVMT tại các KCN trên địa bàn tỉnh đạt được những kết quả nhất định, cụ thể:
+ Về xử lý nước thải: Hiện tại đa phần các DN thứ cấp tại các KCN đều thực hiện việc đấu nối nước thải từ hoạt động sản xuất với hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN. Việc đấu nối được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giữa Công ty Phát triển hạ tầng KCN và DN thứ cấp theo tiêu chuẩn đấu nối nội bộ. Hiện tại 3 KCN đều có hệ thống xử lý nước thải tập trung, với công suất đáp ứng được yêu cầu xử lý nước thải từ các DN thứ cấp. Nếu tính tỷ lệ các KCN đã đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung, Tiền Giang đạt tỷ lệ 100% đáp ứng quy định tại Luật BVMT năm 2014.
+ Về khí thải: Do được quan tâm, đánh giá, xem xét ngay từ giai đoạn lập dự án đầu tư nên nhiều DN trong các KCN đã thực hiện đầu tư xây dựng hệ thống xử lý khí thải (đối với DN có phát sinh khí thải) để xử lý khí thải phát sinh trong quá trình hoạt động.
+ Về chất thải rắn sinh hoạt và chất rắn công nghiệp thông thường (chất thải rắn): Việc thực hiện các quy định về xử lý chất thải rắn được hầu hết các DN nghiêm túc chấp hành. Đa số các DN trong KCN đã có biện pháp phân loại và lưu giữ tạm thời trước khi thu gom đến nơi xử lý. Một số KCN (Tân Hương, Long Giang) đã tổ chức thu gom chất thải tập trung và hợp đồng với đơn vị có chức năng xử lý. Do vậy, về cơ bản việc thu gom, xử lý chất thải rắn được đảm bảo theo quy định tại Luật BVMT năm 2014 và Nghị định 38 ngày 24-4-2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu.
+ Về quản lý chất thải nguy hại: Đa phần các DN trong KCN đều thực hiện tốt công tác quản lý chất thải nguy hại: Thực hiện đăng ký nguồn chất thải nguy hại, bố trí khu vực lưu chứa, hợp đồng với đơn vị có chức năng thu gom xử lý… và thực hiện chế độ báo cáo theo quy định tại Thông tư 36 ngày 30-6-2015 của Bộ TN-MT về quản lý chất thải nguy hại.
Đại hội đại biểu Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường tỉnh Tiền Giang lần thứ II Trong nhiệm kỳ I (2010 - 2015) được sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh, sự phối hợp, hướng dẫn của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh, cùng với sự phối hợp của các sở, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh, hoạt động của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường đã đạt được những kết quả nhất định. Cán bộ, hội viên đã được tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo nghiệp vụ trong lĩnh vực quản lý và các giải pháp kỹ thuật bảo vệ thiên nhiên và môi trường; nâng cao nhận thức của hội viên về bảo vệ thiên nhiên và môi trường. Hiện tại, Hội có trên 100 hội viên. Để xây dựng Hội vững mạnh, đáp ứng vai trò nòng cốt trong tập hợp, đoàn kết rộng rãi đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, Hội sẽ tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ II, nhiệm kỳ 2016 - 2020 (dự kiến diễn ra vào ngày 26-4-2016 tại Sở Tài nguyên và Môi trường). Qua đó, Hội sẽ tập trung tiếp tục củng cố, kiện toàn bộ máy hoạt động; xây dựng các chương trình, kế hoạch hành động cụ thể; nghiên cứu thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội về bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường cho các chương trình, quy hoạch, kế hoạch và các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh; nghiên cứu thí điểm hình thành hoạt động dịch vụ có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của ngành Tài nguyên và môi trường, tạo điều kiện nâng cao thu nhập cho hội viên và hình thành quỹ hoạt động cho tổ chức Hội... TRẦN XUÂN THÀNH Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường Tiền Giang -Chủ tịch Hội nhiệm kỳ I |
Ngoài ra, theo báo cáo kết quả giám sát môi trường (chủ yếu là không khí xung quanh và nước thải công nghiệp) do các chủ đầu tư hạ tầng các KCN thực hiện, đa phần các chỉ tiêu giám sát đều nằm trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi trường theo quy định và diễn biến chất lượng môi trường qua các đợt giám sát là khá ổn định. Tuy nhiên trên cơ sở kết quả đạt được, công tác BVMT tại các KCN cũng có những hạn chế nhất định:
- Về nước thải: Việc giám sát chất lượng nước thải và việc xả thải từ các DN thứ cấp về hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN vẫn chưa được chủ đầu tư hạ tầng KCN quan tâm đúng mức. Ngoài ra việc lắp đặt thiết bị quan trắc tự động và tiếp nhận thông tin từ quan trắc tự động tại các hệ thống xử lý nước thải tập trung tại các KCN vẫn còn hạn chế nhất định nên việc giám sát liên tục xả thải từ hệ thống xử lý nước thải tập trung của KCN vẫn chưa được thực hiện triệt để.
- Về khí thải: Mặc dù các DN đã có ý thức thực hiện và đầu tư các trang thiết bị phục vụ công tác xử lý khí thải phát sinh, vẫn có những DN phát sinh một số khí thải hay mùi hôi đặc trưng từ quá trình hoạt động mà chưa được xử lý triệt để, đặc biệt là các loại hình sản xuất thức ăn thủy sản, sản xuất bột cá chưa giảm thiểu triệt để có khả năng ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Hiện tại, Bộ TN-MT vẫn chưa ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với loại hình sản xuất thức ăn thủy sản, sản xuất bột cá nên công tác quản lý Nhà nước về BVMT đối với lĩnh vực này hiện nay vẫn còn những khó khăn nhất định.
- Về công tác quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại: Qua kết quả kiểm tra thời gian qua cho thấy, đa phần các DN đã quan tâm và thực hiện tương đối tốt về vấn đề này nhưng vẫn còn những tồn tại: Việc phân loại chất thải tại nguồn phát sinh, việc giám sát khối lượng chất thải phát sinh, việc lưu giữ các chứng từ chuyển giao chất thải tại một số DN vẫn chưa thực hiện nghiêm chỉnh
Để đảm bảo hiệu quả công tác bảo vệ môi trường KCN trong thời gian tới, một số vấn đề sau cần được quan tâm đúng mức:
- Phát huy vai trò của các chủ đầu tư hạ tầng KCN trong việc kiểm soát các vấn đề môi trường thuộc thẩm quyền quản lý, đặc biệt là việc giám sát và kiểm soát các nguồn phát sinh chất thải và việc xử lý các nguồn chất thải từ các DN thứ cấp đảm bảo theo quy định (tiêu chuẩn đấu nối nước thải, quản lý xử lý chất thải rắn công nghiệp, sinh hoạt và chất thải nguy hại).
- Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về môi trường cho các DN trong KCN để giúp các DN ý thức rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm đối với vấn đề BVMT trong và ngoài KCN. Các cơ quan Nhà nước cần tăng cường kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về BVMT đối với các DN trong KCN và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT đối với các DN cố tình vi phạm.
- Tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất và phân khu chức năng tại các KCN: Việc tiếp nhận các dự án đầu tư cần đảm bảo thống nhất quy hoạch sử dụng đất và phân khu chức năng tại các KCN theo báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt nhằm đảm bảo tính pháp lý và khoa học trong việc phân khu sản xuất để kiểm soát các vấn đề môi trường phát sinh trong hoạt động.
- Về thu hút đầu tư: Thu hút đầu tư vào KCN theo hướng ưu tiên những ngành công nghiệp sạch, ít ô nhiễm, đảm bảo cơ cấu ngành nghề phù hợp với khả năng và thực tế giải quyết ô nhiễm của KCN; thu hút có trọng điểm để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của tỉnh cũng như tạo điều kiện thuận lợi trong bố trí nhà máy, xây dựng phương án bảo vệ môi trường...
NGUYỄN THÀNH TÂM
Phó Chi cục trưởng, Chi cục Bảo vệ Môi trường