Liên kết, giải pháp cơ bản để phát triển du lịch ĐBSCL
ĐBSCL là khu vực có tiềm năng về du lịch với những nét độc đáo. Nơi đây có dòng sông MêKông bồi đắp phù sa màu mỡ, với 2 nhánh sông chính là sông Tiền và sông Hậu, hệ thống kinh rạch chằng chịt giao thoa cùng núi rừng, biển đảo đã hình thành một vùng sinh thái đa dạng, tạo nên những cảnh quan đặc sắc, hùng vĩ, chứa bao điều kỳ thú mời gọi du khách gần xa.
Du ngoạn sông nước vừa là đặc trưng vừa dễ trùng lắp trong các tour du lỊch các tỉnh, thành khu vực ĐBSCL. Ảnh: Trần Tuấn |
Tiềm năng du lịch ĐBSCL là rất lớn và khả năng phát triển đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, du lịch vùng ĐBSCL chưa có sự hợp tác bền chặt giữa các địa phương, các công ty du lịch. Lâu nay, việc liên kết chỉ trong phạm vi tổ chức sự kiện, chưa thật sự liên kết để cùng phát triển sản phẩm du lịch. Thực tế đó đã làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, liên kết chắp vá hoặc chưa có chiều sâu giữa các địa phương. Tình trạng “mạnh ai nấy làm” và “rập khuôn” đã ảnh hưởng đến tiến trình xúc tiến du lịch mang tính vùng, miền.
Theo đánh giá của Phân viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh, sản phẩm du lịch của các địa phương ở ĐBSCL na ná nhau như: Tiền Giang có tour “Về với ĐBSCL”; sang láng giềng Bến Tre lại có “Du thuyền trên sông MêKông”; qua Vĩnh Long thì có “Về cùng văn minh sông nước miệt vườn”... Tình trạng này dẫn đến sự nhàm chán, số ngày lưu trú trung bình của khách du lịch chỉ bằng 30% - 35% so với bình quân cả nước.
Theo nhận định của các Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành ĐBSCL: Cách tổ chức du lịch ở các địa phương miền Tây Nam bộ giống nhau về diện mạo; chưa có sự đột phá về hình thức, quy mô; chưa mang đặc thù, sắc thái chung của toàn vùng và điểm riêng độc đáo của từng tỉnh, thành.
Ngoài ra, theo Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, lâu nay du lịch vùng ĐBSCL đang đứng trước những thách thức: Hệ thống kết cấu hạ tầng còn hạn chế, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa đạt yêu cầu; chất lượng của lực lượng lao động trên lĩnh vực du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Đặc biệt, hạ tầng giao thông, nhất là giao thông đường thủy còn chậm phát triển, trong khi lợi thế so sánh du lịch của vùng là dựa vào sông nước và biển đảo. Nếu kéo dài tình trạng này chắc chắn ngành Du lịch ĐBSCL không phát huy đúng mức tiềm năng.
Du khách đến tham quan Khu du lịch Cái Bè. |
Theo Quyết định 803/QĐ-BVHTTDL ngày 9-3-2012 của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch về việc phê duyệt “Đề án phát triển du lịch Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020”, quan điểm chủ đạo xuyên suốt đối với phát triển du lịch vùng ĐBSCL là nhằm đưa du lịch trở thành ngành kinh tế có đóng góp thực sự quan trọng trong công cuộc phát triển đất nước, góp phần tích cực vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, vào nỗ lực xóa đói giảm nghèo cho người dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và góp phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch của cả nước, nâng cao vị thế ngành Du lịch trên cơ sở khai thác có hiệu quả và bền vững những lợi thế về vị trí, tài nguyên của vùng.
Theo Đề án phát triển du lịch Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020, các chỉ tiêu phát triển du lịch như sau: - Về khách du lịch, đến năm 2015 đạt 2,7 triệu lượt khách quốc tế và 5,2 triệu lượt khách du lịch nội địa. Năm 2020 đạt 3,9 triệu lượt khách quốc tế và 6,5 triệu lượt khách du lịch nội địa. - Về cơ sở lưu trú du lịch: năm 2015 có tổng số 37.150 buồng khách sạn. Năm 2020 có 50.000 buồng khách sạn. - Về nguồn nhân lực du lịch: năm 2015 có 154.700 lao động trong lĩnh vực du lịch, trong đó có 54.100 lao động trực tiếp. Năm 2020 có 236.600 lao động, trong đó có 82.700 lao động trực tiếp. - Về thu nhập du lịch, giá trị GDP du lịch và nhu cầu đầu tư: năm 2015 thu nhập xã hội từ hoạt động du lịch đạt 732,1 triệu USD, giá trị GDP du lịch đạt 491,6 triệu USD. Năm 2020, thu nhập xã hội từ hoạt động du lịch đạt 1.349,5 triệu USD, giá trị GDP du lịch đạt 877,1 triệu USD. |
Đề án cũng đã chia không gian du lịch ĐBSCL thành 4 cụm để xây dựng sản phẩm du lịch. Cụ thể:
- Cụm trung tâm: gồm thành phố Cần Thơ và các tỉnh: An Giang, Kiên Giang và Hậu Giang với sản phẩm nổi trội của vùng là du lịch tham quan sông nước, du lịch với mục đích thương mại, du lịch lễ hội và du lịch nghỉ dưỡng biển cao cấp.
Cụm bán đảo Cà Mau gồm các tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng với các sản phẩm du lịch quan trọng là tham quan điểm cực Nam của Tổ quốc, du lịch sinh thái tại các khu rừng ngập mặn và du lịch văn hóa, lễ hội gắn với văn hóa dân tộc Khmer tại Sóc Trăng.
Cụm duyên hải phía Đông gồm các tỉnh: Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long và Trà Vinh với các sản phẩm chủ đạo là du lịch sông nước, miệt vườn, nghỉ tại nhà dân, tham quan làng nghề, di tích lịch sử cách mạng.
Cụm Đồng Tháp Mười gồm 2 tỉnh: Long An và Đồng Tháp với sản phẩm chủ đạo là du lịch sinh thái tại các khu rừng đặc dụng ngập nước nội địa Đồng Tháp Mười.
Theo đó có các giải pháp thực hiện đề án như:
- Giải pháp đào tạo nguồn nhân lực;
- Giải pháp chính sách về thuế và tài chính, trong đó xây dựng những cơ chế, chính sách đặc thù về việc ưu đãi thuế. Ưu tiên miễn giảm thuế, cho chậm tiền thuế có thời hạn, giảm tiền thuế đất, cho vay với lãi suất ưu đãi đối với các dự án đầu tư phát triển du lịch ở các vùng đất còn hoang sơ, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, các điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn. Đề xuất các ưu đãi cụ thể về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, thuế sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng với các doanh nghiệp du lịch;
- Giải pháp về quy hoạch yêu cầu các địa phương rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển du lịch phù hợp với định hướng phát triển chung của cả vùng nhằm đảm bảo hiệu quả và năng lực cạnh tranh du lịch.
- Xây dựng quy hoạch chi tiết các trọng điểm du lịch làm cơ sở kêu gọi vốn đầu tư;
- Giải pháp về tổ chức quản lý; giải pháp về đầu tư; giải pháp thị trường, xúc tiến quảng bá;
- Giải pháp hợp tác phát triển; giải pháp nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ.
Tuy còn nhiều hạn chế nhưng bước đầu du lịch vùng ĐBSCL đã có một nền tảng tương đối đồng bộ để bắt đầu bước vào giai đoạn mới với những thách thức và cơ hội đặt ra cấp thiết đối với ngành Du lịch vùng ĐBSCL như cần phải gạt bỏ tính cục bộ để tăng cường liên kết, hợp tác thật sự hiệu quả, hơn nữa là rất cần những dự án đầu tư từ các tổ chức trong và ngoài nước.
HỮU NGHỊ