Tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2014
I. KINH TẾ:
1. Tăng trưởng kinh tế:
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP - Gross Regional Domestic Product) 6 tháng đầu năm 2014 ước đạt 25.645 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 9,1% so với 6 tháng đầu năm 2013, khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 4,5%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 15,8% và khu vực dịch vụ tăng 9,6%. GRDP theo giá thực tế đạt 33.312 tỷ đồng.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Khu vực nông lâm thủy sản chiếm 41,8%, khu vực công nghiệp, xây dựng chiếm 30%, khu vực dịch vụ chiếm 28,2%; so với cùng kỳ tỷ trọng các khu vực này lần lượt là 42,6%,29,5% và 27,9%.
Ảnh minh họa. Ảnh: Vân Anh |
2. Tài chính, ngân hàng:
Tổng thu ngân sách ước đạt 5.329,9 tỷ đồng đạt 85,2% so với dự toán, trong đó thu từ kinh tế địa phương được 2.256 tỷ đồng đạt 60,9% so dự toán và tăng 19,3% so cùng kỳ. Có 2 khoản thu có tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách của tỉnh nhưng đạt dưới 50% so dự toán năm là: thuế công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh thu được 426,2 tỷ đồng đạt 43,5% và tăng 0,4% so cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 57,8 tỷ đồng, đạt 42,5% và tăng 7,1%.
Tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 3.952 tỷ đồng, đạt 65,6% dự toán và tăng 15,1% so cùng kỳ, trong đó chi đầu tư phát triển được 917,4 tỷ đồng (kể cả chi từ nguồn thu xổ số kiết thiết 312 tỷ đồng), tăng 23,4% so cùng kỳ và đạt 62,1% dự toán năm; chi thường xuyên 2.163,3 tỷ đồng, đạt 49,8% so dự toán và tăng 4,3% so cùng kỳ…
Hoạt động tín dụng ngân hàng ước tổng thu tiền mặt được 100.035 tỷ đồng, tăng 4% so cùng kỳ; tổng chi tiền mặt thực hiện được 102.151 tỷ đồng, tăng 3,4%.
Lãi suất huy động trong kỳ giảm 1% so đầu năm nhưng nguồn vốn huy động vẫn tăng, dự kiến đến cuối tháng 6 tổng vốn huy động trên địa bàn đạt 28.300 tỷ đồng, tăng 2.441 tỷ đồng so đầu năm; trong đó huy động từ tiền gửi tiết kiệm chiếm 87,7% trên tổng vốn huy động.
Dư nợ cho vay đến ngày 23/5/2014 đạt 19.881 tỷ đồng tăng 273 tỷ đồng so đầu năm. Nợ xấu hiện nay của các ngân hàng chiếm 2,1% trên tổng dư nợ, với số dư 420 tỷ đồng, so với đầu năm tăng 0,2%.
3. Đầu tư và xây dựng:
Xây dựng còn nhiều khó khăn trong việc huy động vốn, giải phóng mặt bằng… đã ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng, 6 tháng tăng 2,6% so cùng kỳ.
Vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện 7.753,5 tỷ đồng đạt 36,1% kế hoạch tăng 5,8% so cùng kỳ, khu vực nhà nước 1.158,6 tỷ đồng tăng 7,9% chiếm 14,9% trong tổng vốn đầu tư, khu vực ngoài nhà nước 4.937,3 tỷ đồng giảm 0,5% chiếm 63,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 1.657,6 tỷ đồng tăng 27,8%.
Trong đó vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện đạt 776,9 tỷ đồng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có 3 dự án của Trung Quốc đầu tư vào khu công nghiệp Long Giang, tổng số vốn đầu tư 55,7 triệu USD tăng một dự án so cùng kỳ.
Đã thi công hoàn thành 154/674 công trình kế hoạch năm, tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình còn lại, trong đó công trình từ nguồn vốn của tỉnh hoàn thành là 16 công trình, vốn huyện là 48 công trình, vốn xã là 90 công trình. Công trình đang tiếp tục thi công là 492 công trình, trong đó có 66 công trình vốn tỉnh, vốn huyện là 62 công trình, vốn xã là 364 công trình.
4 Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản:
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản có tốc độ tăng trưởng 4,5% so cùng kỳ, trong đó nông nghiệp tăng 4,5%, thủy sản tăng 4,9%, lâm nghiệp chỉ bằng 90,8%.
- Trồng trọt:
Sản lượng cây lương thực có hạt thu hoạch được 791.072 tấn tăng 2,1% so cùng kỳ, chủ yếu sản lượng lúa 782.688 tấn đạt 59,7% kế hoạch, trong đó sản lượng vụ Đông Xuân chiếm 71,2%, tình hình sản xuất cây lúa cụ thể như sau:
+ Vụ Đông Xuân 2013 - 2014: chính thức gieo trồng được 77.414 ha, đạt 100% so kế hoạch, đạt 97,6% so cùng kỳ, giảm 1.934 ha so vụ Đông Xuân trước trong đó huyện Chợ Gạo giảm 1.387 ha, huyện Cai Lậy giảm 358 ha do chuyển sang trồng cây ăn trái. Sản lượng đạt 557.487 tấn tăng 1,8% do năng suất thu hoạch bình quân rất cao được 72 tạ/ha tăng 3 tạ/ha so cùng kỳ. Diện tích thu hoạch giảm 24 ha ở xã Phước Thạnh huyện Tân Phú Đông, phần diện tích này địa phương đã khuyến cáo nông dân không sản xuất do nguồn nước không đảm bảo và lúa bị chết đang trong giai đoạn trổ.
+ Vụ Hè thu sớm: tập trung ở các huyện phía Tây xuống giống được 39.509 ha đạt 100% so kế hoạch, giảm 308 ha so cùng kỳ do chuyển đổi cây trồng. Sản lượng thu hoạch 225.201 tấn tăng 2,8% so cùng kỳ do vào mùa thu hoạch không gặp mưa nhiều lúa không bị đỗ ngã nên năng suất bình quân đạt cao, 57 tạ/ha tăng 2 tạ/ha so cùng kỳ.
+ Vụ hè thu chính vụ: Đã gieo trồng được 76.451 ha đạt 99,9% kế hoạch giảm 2,5% so cùng kỳ tập trung ở các huyện phía Đông. Trong những ngày qua do nắng hạn kéo dài, mùa mưa đến trễ và lượng mưa ít làm cho 15 ha ở huyện Gò Công Đông và 13,7 ha ở huyện Gò Công Tây mới sạ khoảng 5-10 ngày tuổi bị thiệt hại, trà lúa đang trong giai đoạn đẻ nhánh.
Cùng với việc gieo sạ cây lúa, tính đến 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh gieo trồng được 2.953 ha bắp tăng 2,3% so cùng kỳ, thu hoạch 2.452 ha tăng 5,7%, năng suất bình quân 34,1 tạ/ha tăng 0,3% với sản lượng 8.361 tấn tăng 6%. Cây chất bột có củ trồng được 1.370 ha đạt 128% kế hoạch và giảm 1% so cùng kỳ, trong đó diện tích khoai mỡ là 902 ha trồng nhiều ở huyện Tân Phước.
Cây rau đậu các loại trồng được 33.472 ha đạt 76,8% kế hoạch và tăng 3,4%, đã thu hoạch 28.339 ha, năng suất bình quân 169,6 tạ/ha, sản lượng thu hoạch 480.495 tấn, so cùng kỳ diện tích gieo trồng tăng 3,4%, năng suất bình quân tăng 1,2% và sản lượng tăng 13,3 %. Trong đó có 33.335 ha rau các loại tăng 3,4%, đã thu hoạch 28.250 ha, năng suất bình quân 170 tạ/ha với sản lượng 480.250 tấn tăng 13,3%.
Cây lâu năm và cây ăn quả: có diện tích 86.851 ha đạt 101,4% kế hoạch tăng 2,1% so cùng kỳ, trong đó cây ăn quả 70.517 ha tăng 1.155 ha so cùng kỳ chủ yếu ở cây chuối, thanh long, sầu riêng. Sản lượng ước đạt 705 ngàn tấn, giảm khoảng 3 ngàn tấn chủ yếu ở một số cây như mận, nhãn... diện tích trồng giảm do bệnh chổi rồng và giá không ổn định nên người dân chuyển sang trồng cây khác.
Giá bán các loại trái cây không ổn định, nhà vườn gặp rất nhiều khó khăn, đáng kể nhất là trái thanh long ở huyện Chợ Gạo đã được cấp chứng nhận VietGAP và được trung tâm kiểm dịch thực vật sau nhập khẩu cấp mã số xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhưng giá cũng thất thường và giảm rất sâu.
- Về tình hình chăn nuôi: Theo kết quả điều tra chăn nuôi thời điểm 01/4/2014, đàn trâu có 275 con giảm 10,1% so cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 73.046 con tăng 8% đạt 100,8% kế hoạch ; đàn heo có 554.700 con giảm 1,2% đạt 96% kế hoạch với sản lượng thịt heo xuất chuồng 70.111 tấn, đàn trâu 17 tấn, đàn bò 7.025 tấn; đàn gia cầm có 6.872 ngàn con giảm 2,5% đạt 96,9% kế hoạch.
Giá heo hơi trong thời gian qua liên tục ở mức khá cao, giá gia cầm nhích lên dần từ cuối quý I, người chăn nuôi rất phấn khởi. Tuy nhiên dịch bệnh trong chăn nuôi luôn tiềm ẩn, có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Do đó việc tái đàn ào ạt làm cho giá con giống tăng cao và không kiểm soát được chất lượng giống tạo điều kiện thuận lợi cho các loại dịch bệnh tiềm ẩn phát triển do đó cần tuyên truyền công tác tiêm phòng, vệ sinh chuồng trại hộ nông dân nhằm tránh rủi ro và giảm bớt thiệt hại nếu có xảy ra.
- Lâm nghiệp: Trồng cây phân tán được 1,3 triệu cây các loại giảm 47,3% so cùng kỳ do chỉ trồng ở huyện Gò Công Đông và huyện Tân Phú Đông theo chủ trương chống lụt bão. Hoạt động lâm nghiệp những tháng đầu năm tập trung vào công tác chăm sóc, khoanh nuôi và bảo vệ rừng.
Sản lượng khai thác gỗ đạt 35.321 m3 bằng 96,7% so với cùng kỳ, các loại gỗ được khai thác chủ yếu từ cây tràm, dầu gió, bạch đàn và khai thác được 160.551 Ste củi các loại bằng 96%. Sản lượng khai thác giảm dần do số lượng cây đạt tỷ lệ khai thác giảm.
- Thủy, hải sản:
Ước tính 6 tháng đầu năm toàn tỉnh thả nuôi được 13.331 ha thủy sản các loại đạt 88,8% kế hoạch giảm 1,7% so cùng kỳ.
Thủy sản nước ngọt nuôi được 5.781 ha đạt 88,9% so cùng kỳ. Diện tích cá nước ngọt giảm chủ yếu ở các huyện phía Đông do thời tiết nắng nóng kéo dài kết hợp với nước mặn nên chưa thuận lợi thả nuôi. Nhìn chung tình hình nuôi ổn định, không xảy ra dịch bệnh.
Thủy sản nước mặn, lợ nuôi được 7.550 ha tăng 8,2% so cùng kỳ, trong đó diện tích tôm 2.370 ha tăng 3,7%. Về tình hình dịch bệnh: có 122 ha tôm nuôi thâm canh, bán thâm canh ở 02 huyện Tân Phú Đông và Gò Công Đông có bệnh, trong đó Ngành chức năng đã xác minh 32 ha/19 triệu con/73 hộ, chủ yếu bị bệnh đốm trắng, chiếm 7,6 % diện tích, do thời tiết có nhiều biến động bất lợi cho tôm nuôi, chất lượng con giống chưa đảm bảo...
Tổng sản lượng thủy sản đạt 118.461 tấn tăng 3,7% so cùng kỳ, thu hoạch từ nuôi đạt 73.006 tấn tăng 3,6%, trong đó sản lượng cá tra đạt 20.222 tấn tăng 2%; sản lượng khai thác đạt 45.455 tấn tăng 3,8% do thời tiết thuận lợi, tuy nhiên đã xảy ra hai trường hợp tàu cá của tỉnh bị tai nạn, ước tính thiệt hại tài sản khoảng 1,2 tỷ đồng.
5. Sản xuất công nghiệp:
Tốc độ phát triển công nghiệp tăng 17,6%, thấp hơn 0,2% so cùng kỳ là một trong những ngành có tốc độ tăng trưởng ổn định nhất trong 6 tháng qua. Các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua đã thu hút được nhiều dự án trong và ngoài đến đầu tư, đã góp phần làm cho công nghiệp của tỉnh nhà duy trì tốc độ tăng.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng tăng 8,2% so cùng kỳ, công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,2% do một số mặt hàng sản xuất ổn định như cá phi lê đông lạnh, sản phẩm từ cá, động vật thân mềm; sản xuất trang phục; sản xuất kim loại… sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 11,7%, cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,2%, riêng công nghiệp khai khoáng bằng 4,4% so cùng kỳ do nguồn tài nguyên cát sông ngày càng khan hiếm.
Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2014 tính theo giá so sánh 2010 được 27.860,1 tỷ đồng tăng 18,9% so cùng kỳ, khu vực kinh tế nhà nước thực hiện 461,2 tỷ đồng tăng 9,5%, khu vực kinh tế ngoài nhà nước thực hiện 18.915,4 tỷ đồng tăng 19,3%, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện 8.483,5 tỷ đồng tăng 18,6%.
Phân theo ngành kinh tế: ngành công nghiệp chế biến chế tạo thực hiện 27.676,9 tỷ đồng tăng 19,1%, ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí thực hiện 65,2 tỷ đồng tăng 5,6%, ngành công nghiệp cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải thực hiện 117,5 tỷ đồng tăng 5,4% và ngành công nghiệp khai khoáng đạt 333 tỷ đồng bằng 3,7%.
Kinh tế hợp tác còn gặp nhiều khó khăn chưa có hướng giải quyết thỏa đáng do sản xuất không hiệu quả, thiếu đồng bộ, tổ chức thực hiện chưa kịp thời. Trong 6 tháng đầu năm có 06 HTX thành lập mới, giải thể 04 HTX do các HTX ngưng hoạt động đã lâu không có khả năng củng cố, kết nạp thêm 03 thành viên mới, tổng số thành viên Liên minh HTX của tỉnh đến nay là 131 thành viên.
Toàn tỉnh hiện có 01 Liên minh HTX và 104 HTX gồm có 47 HTX nông nghiệp, 14 HTX tiểu thủ công nghiệp, 9 HTX thương mại - dịch vụ, 4 HTX xây dựng, 11 HTX vận tải, 16 quỹ tín dụng nhân dân, 02 HTX thủy sản và một HTX y tế.
6. Thương mại, dịch vụ và giá cả:
a. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội:
Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội thực hiện đạt 20.905,2 tỷ đồng tăng 12,3% so cùng kỳ: kinh tế nhà nước đạt 2.117,2 tỷ đồng tăng 18,4%, kinh tế ngoài nhà nước đạt 18.726,8 tỷ đồng tăng 11,9%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 61,2 tỷ đồng bằng 67,4%.
Phân theo ngành kinh tế: thương nghiệp đạt 16.906,4 tỷ đồng tăng 12,3%; lưu trú đạt 33,1 tỷ đồng tăng 10%; ăn uống đạt 1.810,3 tỷ đồng tăng 8,4%; du lịch lữ hành đạt 28,4 tỷ đồng tăng 12,3%; dịch vụ đạt 2.126,9 tỷ đồng tăng 15,7% so cùng kỳ.
Về công tác xúc tiến thương mại trong tỉnh tổ chức 2 phiên chợ Hàng Việt về nông thôn dịp Tết Nguyên đán 2014 có 34 doanh nghiệp tham gia với 74 gian hàng, hỗ trợ 5 doanh nghiệp bán hàng lưu động về nông thôn tại 10 huyện, thị... tạo điều kiện cho bà con vùng sâu vùng xa tiếp cận và mua sắm.
Ngoài ra còn tổ chức các hội chợ tại tỉnh nhà và tham dự hội chợ tại các tỉnh bạn như: tổ chức hội chợ hàng Việt Nam chất lượng cao - Tiền Giang 2014 từ ngày 25/03 đến 30/03/2014, tham gia triển lãm Công thương vùng kinh tế Đông Nam bộ năm 2014 tại tỉnh Bình Thuận... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh có cơ hội giao thương và giới thiệu sản phẩm đến khách hàng ngoài tỉnh.
b. Xuất - nhập khẩu:
- Xuất khẩu hàng hóa:
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 636,8 triệu USD tăng 34,4% so cùng kỳ: kinh tế nhà nước thực hiện đạt 72,5 triệu USD tăng 5,3%, kinh tế ngoài nhà nước đạt 216,8 triệu USD tăng 13,8%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 347,5 triệu USD tăng 62,2% so cùng kỳ. Trong bốn mặt hàng chủ lực của tỉnh có hai mặt hàng có kim ngạch tăng, trong đó hàng may mặc tăng 49%. Cụ thể các mặt hàng như sau:
+ Hàng thủy sản: 6 tháng đầu năm xuất 58.596 tấn tăng 1,8%, về trị giá đạt 132,5 triệu USD tăng 4,3% so cùng kỳ, trong đó mặt hàng cá tra là chủ lực chiếm 84,3%. Giá cá tra luôn biến động làm cho người nuôi gặp nhiều khó khăn.
Trong quý 1 sau thời gian dài giảm giá, cá tra nguyên liệu đã tăng giá khoảng 24 - 24,5 ngàn đồng/kg, ở khoảng giá này nông dân có lãi. Sau sự kiện Mỹ công bố mức thuế trong đợt xem xét thứ 9 vụ kiện chống bán phá giá cá tra Việt Nam (POR9) thì giá cá tra liên tục tăng mạnh và dao động từ 24,5-26 ngàn đồng/kg.
Tuy nhiên diện tích nuôi giảm một phần do những hộ nuôi nhỏ thua lỗ thiếu vốn tái đầu tư, một phần họ cho rằng giá tăng nhưng không ổn định, diện tích nuôi được duy trì chủ yếu do doanh nghiệp tự đầu tư hoặc doanh nghiệp liên kết đầu tư với nông dân. Đến đầu tháng 6 giá cá giảm từ 2 – 2,5 ngàn đồng/kg so với tháng trước, ở mức khoảng 22 – 23 ngàn đồng/kg tương đương giá thành, người nuôi không có lãi và tìm thương lái thu mua cá thành phẩm cũng tất khó khăn.
+ Hàng rau quả: xuất 3.005 tấn giảm 7,8%, về trị giá đạt 3,7 triệu USD giảm 7,2% so cùng kỳ. Tiền Giang có rất nhiều chủng loại cây ăn quả nhưng chất lượng quả phần lớn không đồng nhất, sản lượng không ổn định khó mở rộng thị trường.
+ Gạo: xuất được 106.899,3 tấn đạt 98,8%, về trị giá đạt 49,7 triệu USD tăng 7,3% so cùng kỳ. Gạo là mặt hàng xuất khẩu chủ lực lớn nhất của tỉnh, thế nhưng mặt hàng này luôn trong tình trạng khó khăn.
Khác với thông lệ hàng năm, năm nay sau Tết Nguyên đán các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu gạo chủ yếu là thực hiện phần còn lại của hợp đồng gạo tập trung cho Philippines đã được phân bổ cuối năm 2013. Giá gạo, giá lúa biến động liên tục làm cho thị trường xáo trộn nông dân được mùa nhưng khó bán lúa.
Nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng từ việc bất ổn chính trị ở Thái Lan, chào bán gạo ra thị trường với thấp hơn ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu gạo của nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó lượng gạo xuất đi Châu Phi giảm mạnh và thị trường Trung Quốc nhập chủ yếu qua đường tiểu ngạch do đó thị trường lúa gạo rất trầm lắng.
+ Hàng dệt may: xuất được 18.112 ngàn sản phẩm tăng 229,9%, về trị giá đạt 125,5 triệu USD tăng 49,3% so cùng kỳ. Sáu tháng đầu năm hàng may mặc xuất khẩu trong tỉnh gặp nhiều thuận lợi có những doanh nghiệp ký hợp đồng đến hết quý 2.
Ngoài các mặt hàng chủ yếu, sáu tháng đầu năm trị giá xuất khẩu các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang phát triển mạnh góp phần tăng trị giá xuất khẩu của tỉnh như: mặt hàng giày dép đạt 114,3 triệu USD tăng 32%, sản phẩm bằng nhựa đạt 99,2 triệu USD tăng 74,3% so cùng kỳ...
- Nhập khẩu hàng hóa:
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 358,9 triệu USD tăng 48,1% so cùng kỳ: kinh tế nhà nước đạt 26,6 triệu USD tăng 6,4%, kinh tế ngoài nhà nước đạt 56,5 triệu USD giảm 6,7%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 275,8 triệu USD tăng 76% so cùng kỳ.
Hàng hóa nhập khẩu tập trung chủ yếu ngành công nghiệp chế biến đạt 354,9 triệu USD tăng 48,2% so cùng kỳ, trong đó nguyên phụ liệu chế biến thức ăn gia súc đạt 49,7 triệu USD tăng 18,4%, vải và phụ liệu hàng may mặc đạt 83,7 triệu USD tăng 42,9%, phụ liệu giày dép đạt 68,4 triệu USD tăng 2,2%. Hàng hóa đạt 4,1 triệu USD tăng 40,6% so cùng kỳ.
c. Chỉ số giá:
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 năm 2014 so với tháng trước tăng 0,18% (thành thị tăng 0,27%, nông thôn tăng 0,15%); so với tháng 12 năm trước tăng 1,69%; so với tháng 6 năm 2013 tăng 5,11%. Bình quân sáu tháng đầu năm 2014 so với bình quân 6 tháng năm 2013 tăng 4,5%.
CPI 6 tháng đầu năm 2014 có tốc độ tăng tương đối thấp so với cùng kỳ (6 tháng đầu năm 2013 tăng 3,69%), bình quân mỗi tháng tăng 0,28%. CPI tháng 6 năm 2014 tăng 0,18% so tháng trước do một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
- Đàn gia súc, gia cầm giảm, giá thịt hơi tăng tác động đến đến mặt hàng thực phẩm tăng 0,41%, cụ thể giá thịt heo tăng 1,09%, giá thịt bò tăng 1,36%,
- Nắng nóng kéo dài một số loại cây không phù hợp, năng suất thu hoạch giảm, số lượng về các chợ ít dẫn đến nhóm rau tươi có chỉ số giá tăng 2,91% như: bắp cải tăng 10,42%, cà chua tăng 18,88%, đỗ quả tươi tăng 11,11%, hành lá tăng 16,33% và gừng tươi tăng 14,49%... và thời tiết nóng bức nhu cầu sử dụng diện và các dụng cụ điện cho sinh hoạt cũng tăng theo như quạt bàn tăng 0,59%, quạt đứng tăng 0,53%, tủ lạnh tăng 1,53% tác động làm cho chỉ số giá điện tăng 0,45% và chỉ số giá thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,17%.
- Do điều chỉnh, chỉ số giá gas tăng 2,06%, giá nhiên liệu tăng 0,16% cùng với chỉ số tăng của giá điện... tác động đến ngành hàng nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD tháng này tăng 0,51%...
Chỉ số giá vàng tháng này giảm 0,18% so tháng trước, mức giá bình quân 3.339 ngàn đồng/chỉ. Chỉ số giá USD tăng 0,52% so tháng trước, mức giá bình quân 21.227đồng/USD.
d. Du lịch:
Số khách tham quan du lịch đạt 732,8 ngàn lượt tăng 7,8% so cùng kỳ, trong đó khách quốc tế đạt 265,9 ngàn lượt tăng 3,1%. Doanh thu hoạt động lưu trú, ăn uống và du lịch lữ hành đạt 1.871,9 tỷ đồng tăng 8,5%, trong đó dịch vụ lữ hành và hoạt động hỗ trợ du lịch chiếm 1,5%.
e. Vận tải:
Doanh thu vận tải, kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải thực hiện 845,3 tỷ đồng tăng 8,4% so cùng kỳ: kinh tế nhà nước thực hiện 23,4 tỷ đồng giảm 19%, kinh tế ngoài nhà nước thực hiện 821,9 tỷ đồng tăng 9,4%. Vận tải đường bộ thực hiện 516,7 tỷ đồng tăng 9,6% so cùng kỳ, vận tải đường sông thực hiện 305,3 tỷ đồng tăng 9,1%, vận tải đường biển thực hiện 23,3 tỷ đồng giảm 19,1%.
Vận chuyển hành khách đạt 16.702 ngàn lượt khách tăng 1,9% và luân chuyển được 606.538 ngàn lượt khách.km tăng 1,1% so cùng kỳ, trong đó vận chuyển của cơ sở kinh tế cá thể đạt 11.993 ngàn lượt khách và luân chuyển được 467.250 ngàn lượt khách.km. Vận tải đường bộ thực hiện 12.804 ngàn lượt khách tăng 1,1% và luân chuyển được 596.612 ngàn lượt khách.km tăng 1,1% so cùng kỳ. Vận tải đường sông thực hiện 3.898 ngàn lượt khách tăng 4,3% và luân chuyển được 9.926 ngàn lượt khách.km tăng 0,5%.
Vận chuyển hàng hóa đạt 6.842 ngàn tấn tăng 3,1% và luân chuyển được 629.508 ngàn tấn.km tăng 2,3% so cùng kỳ, trong đó cơ sở kinh tế cá thể đạt 2.777 ngàn tấn và luân chuyển được 240.234 ngàn tấn.km. Vận tải đường bộ thực hiện 2.027 ngàn tấn tăng 2,8% và luân chuyển được 169.784 ngàn tấn.km tăng 3% so cùng kỳ. Vận tải đường sông thực hiện 4.815 ngàn tấn tăng 3,1% và luân chuyển được 459.724 ngàn tấn.km tăng 2%.
Nhìn chung từ đầu năm đến nay khối lượng vận chuyển và luân chuyển hàng hóa cũng như hành khách đều đáp ứng nhu cầu đi lại cũng như sản xuất của người dân. Hoạt động xe buýt, taxi, xe tuyến cố định trên địa bàn tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân đi lại và giảm đáng kể số lượng xe máy lưu thông, góp phần hạn chế tai nạn giao thông, chống ùn tắt giao thông.
* Phương tiện giao thông: Trong tháng đăng ký mới 4.068 mô tô xe máy, 83 ô tô. Tổng số xe đang quản lý trên địa bàn tỉnh 839.966 chiếc, trong đó mô tô xe máy: 820.754 chiếc, 19.045 xe ô tô, 107 xe ba bánh và 60 xe khác.
f. Bưu chính viễn thông:
Doanh thu dịch vụ bưu chính, viễn thông đạt 619,2 tỷ đồng tăng 16,5% so cùng kỳ: bưu chính doanh thu đạt 22 tỷ đồng giảm 10,1%, viễn thông đạt 597,2 tỷ đồng tăng 17,8%.
Tổng số thuê bao điện thoại (số thuê bao điện thoại cố định và di động trả sau) giảm 31.091 thuê bao, số thuê bao điện thoại trên mạng đến cuối tháng 6 là 236 thuê bao, mật độ điện thoại bình quân đạt 13,8 thuê bao/100 dân. Thuê bao internet phát triển 5.836 thuê bao, số thuê bao trên mạng đến cuối tháng 6 là 52.965 thuê bao, mật độ internet bình quân đạt 3,1 thuê bao/100 dân.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI:
1. Lao động, giải quyết việc làm:
Tư vấn giới thiệu việc làm và tổ chức các phiên giao dịch việc làm cho người lao động được thực hiện thường xuyên đáp ứng nhu cầu tìm việc của người lao động, giúp người lao động có việc làm, có thu nhập đảm bảo cuộc sống hàng ngày.
Trong 6 tháng đầu năm 2014 toàn tỉnh giải quyết việc làm cho 8.296 lao động đạt 34,6% kế hoạch giảm 12% so cùng kỳ, đã xuất cảnh được 72 lao động sang các nước, trong đó: Nhật Bản: 53 lao động, Hàn Quốc: 05 lao động, Đài Loan: 09 lao động, Mỹ: 02 lao động, Malaysia và Ma Cau mỗi nước một lao động; có 4.192 trường hợp đăng ký bảo hiểm thất nghiệp trong đó có 3.443 trường hợp đã có quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp với tổng số tiền chi trả tương đương 27.211 triệu đồng.
Tổ chức các phiên giao dịch việc làm có 61 doanh nghiệp tham gia tuyển dụng với nhu cầu tuyển dụng 7.923 lao động. Nhu cầu lao động ở các ngành giày da, may mặc, bán hàng rất lớn nhưng lực lượng lao động phổ thông trong tỉnh không đáp ứng đủ nhu cầu.
2. Chính sách xã hội
Công tác an sinh xã hội tiếp tục được các địa phương quan tâm chỉ đạo. Phối hợp với các tỉnh, đoàn thể và chính quyền các cấp tổ chức 53 đoàn thăm hỏi, tặng quà trong dịp lễ, Tết, gia đình thương binh, liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng.
Vận động đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa được 5.477 triệu đồng, xây mới 57 ngôi nhà tình nghĩa với tổng kinh phí 2.015 triệu đồng, sửa chữa 19 ngôi nhà tình với tổng kinh phí 370 triệu đồng đạt 54,3% kế hoạch năm từ nguồn vận động.
Thực hiện Quyết định 22/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đã bàn giao 352 ngôi nhà tình nghĩa, tổng kinh phí 14.080 triệu đồng và sữa chữa 64 ngôi nhà với tổng kinh phí 1.420 triệu đồng cho các gia đình chính sách.
3. Giáo dục:
Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2013 – 2014 (ngày 02,03,04/6) với 4 môn thi diễn ra an toàn, nghiêm túc, đúng quy chế; gồm 32 hội đồng coi thi có 555 phòng thi, với 11.679/11.698 thí sinh dự thi hệ giáo dục phổ thông đạt tỷ lệ 99,8%, có 1.187/1.227 thí sinh dự thi hệ giáo dục thường xuyên đạt tỷ lệ 98,7%. Kết quả sơ bộ thi tốt nghiệp THPT năm 2013-2014, kết quả như sau:
- Hệ Trung học phổ thông: Tổng số thí sinh dự thi là 11.688 thí sinh số thí sinh tốt nghiệp là 11.597 thí sinh, đạt tỷ lệ 99,2% trong đó loại giỏi có 470 thí sinh, chiếm tỷ lệ 4,1%, loại khá có 2.729 thí sinh, chiếm tỷ lệ 25,5%.
- Hệ giáo dục thường xuyên: Tổng số thí sinh dự thi là 1.211 thí sinh, số thí sinh tốt nghiệp là 979 thí sinh, đạt tỷ lệ 80,8% trong đó loại giỏi có 3 thí sinh, chiếm tỷ lệ 0,3%, loại khá có 53 thí sinh, chiếm tỷ lệ 5,4%.
So với năm học 2012-2013 tỷ lệ thí sinh tốt nghiệp năm nay tăng ở cả hai hệ: THPT tăng 1,3%, Bổ túc THPT tăng 9,2%; có 12/36 trường THPT có tỷ lệ học sinh thi đỗ tốt nghiệp đạt 100%, trong đó có trường THPT Chợ Gạo, trường chuyên Tiền Giang... nhiều năm liền đỗ tốt nghiệp 100%.
Tập trung xử lý hồ sơ, dữ liệu thí sinh đăng ký dự thi đại học, cao đẳng năm 2014 chuyển giao về các trường đại học, cao đẳng và Bộ Giáo dục – Đào tạo tại TP. Hồ Chí Minh. Tổng số có 27.406 hồ sơ thí sinh đăng ký dự thi đại học, cao đẳng giảm 2.850 hồ sơ so năm 2013, gồm các khối thi A: 9.526, A1: 2.795, B: 6.022, C: 851, D1: 4.063, còn lại các khối khác 1.308 hồ sơ.
4. Chăm sóc sức khỏe:
Tình hình dịch bệnh 6 tháng đầu năm 2014 so với cùng kỳ có 8 bệnh tăng trong đó bệnh sởi xảy ra 35 cas tăng 100% và không có tử vong, các bệnh khác có tỷ lệ tăng cao nhưng số cas mắc không đáng kể; có 3 bệnh giảm trong đó bệnh tay chân miệng giảm 17,8%, bệnh quai bị giảm 74,3; các bệnh khác tương đương hoặc không xảy ra.
Công tác khám chữa bệnh vẫn thường xuyên quá tải bệnh viện tuyến tỉnh, công suất sử dụng giường bệnh tuyến tỉnh tăng 9% so với công suất sử dụng giường bệnh bình quân là 101%, các bệnh viện chuyên khoa đạt 94,5%, bệnh viện tuyến huyệt đạt 83,7%..., đã khám chữa bệnh 2.856.975 lượt người tăng 0,9% so cùng kỳ trong đó điều trị nội trú 105.288 lượt người giảm 0,7 %.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm cũng thường xuyên được quan tâm, kiểm tra 6.991 lượt cơ sở kết quả có 84,4% cơ sở đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngộ độc thức ăn và thực phẩm xảy ra 5 vụ có 160 người mắc, trong đó 02 vụ độc thực phẩm tại công ty có 116 người mắc và một vụ xảy ra vào tháng 5 có 2/3 người trong hộ gia đình tử vong do bị ngộ độc từ con so biển.
Bệnh sốt xuất huyết: xảy ra 318 cas sốt xuất huyết (không xảy ra tử vong), giảm 57,3% so cùng kỳ. Nhiễm HIV/AIDS: phát hiện 115 cas nhiễm HIV giảm 5,7%, số cas mới AIDS là 45 cas giảm 41,6%, tử vong do AIDS là 19 cas giảm 38%. Lũy kế đến nay số người nhiễm HIV là 3.818 cas, số cas AIDS là 1.494 và tử vong do AIDS là 819 cas.
5. Văn hóa, thể thao:
Trong 6 tháng đầu năm 2014 tập trung tổ chức các ngày lễ lớn đúng như kế hoạch, bên cạnh đó còn tổ chức kỷ niệm các sự kiện lớn của tỉnh nhà như tổ chức Hội xuân, chợ hoa xuân đều khắp trên địa bàn các huyện, thành, thị với nhiều loại hình hoạt động phong phú và đa dạng; 95 năm nghệ thuật Tiền Giang được hình thành và phát triển được tổ chức Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể; chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập huyện Tân Phước và 25 năm khai thác kinh tế xã hội vùng Đồng Tháp Mười; tổ chức thành công lễ công bố Nghị quyết số 130/NQ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cai Lậy để thành lập thị xã Cai Lậy và huyện Cai Lậy còn lại…
Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục cũng cố nâng chất. Toàn tỉnh hiện có 429.088 hộ/429.159 hộ đăng ký xây dựng gia đình văn hóa, đạt tỷ lệ 99,9%; có 948/1018 ấp, khu phố đạt chuẩn văn hóa, đạt tỷ lệ 93,1%; xây dựng mới 01 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới (xã Thành Công – huyện Gò Công Tây); có 15 xã đạt chuẩn văn hóa nông thôn mới; 10 phường, thị trấn đạt chuẩn văn minh đô thị; có 23 chợ văn hóa, 9 công viên văn hóa, 177 con đường văn hóa, 270 cơ sở thờ tự văn hóa.
Công tác Thanh – kiểm tra văn hóa cũng được quan tâm trong 6 tháng đầu năm Thanh tra Sở tổ chức thanh tra 01 cuộc, kiểm tra 25 cuộc với 308 lượt, phát hiện 35 vụ vi phạm,.tạm giữ 143 đĩa, xử phạt vi phạm hành chính 28 vụ; tổng số tiền phạt: 122,5 triệu đồng tăng 14,4% so với cùng kỳ; tịch thu 06 thẻ nhớ điện thoại di động, 02 USB, tiêu hủy 01 thẻ nhớ điện thoại di động có chứa nội dung độc hại.
Phong trào thể thao trên địa bàn tỉnh được duy trì và phát triển với nhiều hình thức đa dạng và phong phú, tổ chức các hoạt động thể thao phong trào để mọi người tham gia tập luyện rèn luyện sức khỏe thường xuyên như tennis, cầu lông, bóng chuyền, bóng đá nam. Phong trào thể dục thể thao thành tích cao đạt kết quả như sau: môn PencakSilat đạt 01 huy chương Bạc (HCB) và 02 HCĐ, môn cử tạ đạt 01 HCV, 11 HCB và 03 HCĐ, môn boxing đạt 01 HCV và 01 HCĐ, môn bóng bàn đạt 01 HCĐ…
6. Tình hình trật tự an toàn giao thông: Theo báo cáo của ngành công an tính đến ngày 15-5-2014:
Giao thông đường bộ: Tai nạn xảy ra 146 vụ, làm chết 90 người, bị thương 151 người; so cùng kỳ tai nạn giảm 92 vụ, làm chết giảm 19 người, bị thương giảm 81 người. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ xảy ra 40.460 vụ giảm 13.789 vụ so cùng kỳ, phạt tiền 36.070 vụ với số tiền 22.031 triệu đồng.
Giao thông đường thủy: Từ đầu năm đến nay xảy ra 2 vụ tai nạn, làm chết 01 người. Vi phạm trật tự an toàn giao thông đường thủy xảy ra 7.255 vụ giảm 481 vụ so cùng kỳ, phạt tiền 5.877 vụ với số tiền phạt 1.012 triệu đồng.
7. Tình hình cháy nổ, môi trường:
Từ đầu năm đến nay xảy ra 25 vụ cháy, làm bị thương 2 người, tài sản thiệt hại ước tính khoảng 4.352 triệu đồng và 11,3 hecta rừng tràm, bạch đàn từ 2 – 4 năm tuổi. So với cùng kỳ năm 2013, số vụ cháy tăng 6 vụ, số người bị thương giảm một người. Vi phạm môi trường đã phát hiện 25 vụ gồm tài nguyên khoáng sản 10 vụ, môi trường 13 vụ, đất đai 01 vụ và tài nguyên nước 01 vụ; đã xử lý 30 vụ (trong đó có 08 vụ tồn của năm 2013 chuyển sang) với tổng số tiền xử phạt là 258 triệu đồng.
(Theo tiengiang.gov.vn)