Thứ Ba, 11/11/2014, 06:23 (GMT+7)
.

Cần nhiều giải pháp để vực dậy ĐBSCL

Hội thảo Tái cơ cấu phát triển ngành Nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, gắn với thích ứng biến đổi khí hậu nằm trong chuỗi sự kiện MDEC - Sóc Trăng 2014.

Hội thảo tập trung bàn về một số vấn đề đang đặt ra cần phải giải quyết là: Thực trạng và giải pháp phát triển dải rừng ngập mặn ven biển với xây dựng hệ thống ven biển; thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản. Tái cơ cấu phát triển nuôi trồng thủy sản ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng; liên kết hợp tác sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản theo chuỗi nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất trên một đơn vị diện tích, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân vùng ĐBSCL…

Ông Nguyễn Phong Quang, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ (thứ 2 từ phải sang) cùng lãnh đạo các bộ, ngành tham quan gian hàng  tại hội chợ triển lãm trong khuôn khổ MDEC - Sóc Trăng 2014.                                                                                                                                                                                    Ảnh: SĨ NGUYÊN
Ông Nguyễn Phong Quang, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ (thứ 2 từ phải sang) cùng lãnh đạo các bộ, ngành tham quan gian hàng tại hội chợ triển lãm trong khuôn khổ MDEC - Sóc Trăng 2014. Ảnh: Sĩ Nguyên

Còn nhiều bất cập

ĐBSCL có 3,8 triệu ha đất nông nghiệp, chiếm 27,2% so với cả nước. Trong đó, diện tích trồng lúa là 52%, có hệ sinh thái đa dạng: Ngọt, lợ, mặn đan xen. Đây cũng là vùng cung cấp lương thực, trái cây, thủy sản lớn, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược an ninh lương thực và xuất khẩu gạo, thủy sản Quốc gia.

Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp ở nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng đã và đang gây tác động tiêu cực đến môi trường như làm giảm đa dạng sinh học, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm nguồn nước, tăng chi phí sản xuất và đe dọa tính bền vững của tăng trưởng. Chi phí nhiều loại sản xuất ngày càng cao cũng bắt đầu làm giảm khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam, với vị thế nhà sản xuất “chi phí thấp” trên trường quốc tế.

Trao đổi bên lề hội thảo, GS-TS Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng Trường Đại học Nam Cần Thơ bức xúc: “Nông dân trồng gì, chặt bỏ gì tùy ý họ. Nông dân và cả doanh nghiệp cũng không biết thị trường nằm ở đâu. Trong xuất khẩu gạo, doanh nghiệp không dám ký hợp đồng bao tiêu với nông dân! Kênh thu mua gần như để thương lái quyết định, chuyện ép giá là khó tránh khỏi. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho điệp khúc “được mùa rớt giá” cứ tái diễn ở ĐBSCL”.

Ông Trần Thanh Nam, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết, hàng năm, vùng ĐBSCL cung cấp 50% sản lượng lúa, đóng góp 90% số lượng gạo xuất khẩu. Tuy nhiên, việc sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Trước hết là vấn đề thu nhập thấp và bấp bênh của người trồng lúa.

Mặc dù Chính phủ đã có Nghị quyết bảo đảm tối thiểu người trồng lúa có lợi nhuận 30%, tuy nhiên do bình quân diện tích của mỗi hộ trồng lúa ít, giá cả vật tư, phân bón nông nghiệp luôn tăng cao, thị trường gạo thế giới có nhiều biến động, trong khi đó ở ngành hàng lúa gạo sản xuất chưa gắn với tiêu thụ.

Do sản xuất manh mún, không xuất phát từ tín hiệu thị trường nên chất lượng gạo nói riêng và chất lượng nông sản nói chung không đồng đều và chất lượng chưa cao. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá bán gạo của Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Ngoài ra, ngành lúa gạo ở ĐBSCL cũng đang đối mặt với những khó khăn về hạ tầng, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, lao động khan hiếm và đắt đỏ, quá trình cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp diễn ra chậm so với nhu cầu. “Sản xuất nông nghiệp ở nước ta nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng đã và đang gây tác động tiêu cực đến môi trường như làm giảm sự đa dạng sinh học, suy thoái tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm nguồn nước, tăng chi phí sản xuất và đe dọa tính bền vững của tăng trưởng.

Chi phí sản xuất nhiều loại nông sản ngày càng cao cũng bắt đầu làm giảm khả năng cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế. Do đó, chất lượng và sự bền vững của tăng trưởng nông nghiệp Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng là vấn đề cần được cả hệ thống chính trị phải quan tâm để tiếp tục phát triển có năng suất, chất lượng và hiệu quả bền vững”- ông Trần Thanh Nam đánh giá một số hạn chế.

ĐBSCL là vùng nông nghiệp trọng điểm của cả nước. Thế nhưng, khu vực này có địa bàn nông thôn rộng lớn và cũng là khu vực được dự báo sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề do biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Trong khi đó, xu thế hội nhập, yêu cầu phát triển kinh tế, tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và ứng phó với biến đổi khí hậu đang đặt ra nhiều thách thức đối với các tỉnh trong vùng.

Rất nhiều đại biểu tham dự Hội thảo để bàn cách tái cơ cấu phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, gắn với thích ứng biến đổi khí hậu.
Rất nhiều đại biểu tham dự Hội thảo để bàn cách tái cơ cấu phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, gắn với thích ứng biến đổi khí hậu.

Nhiều giải pháp cho sự phát triển vùng

Tiến sĩ Võ Hùng Dũng, Giám đốc VCCI Cần Thơ cho biết, thị trường cho sản phẩm nông nghiệp không chỉ là công việc của các nhà kinh doanh, mà phải từ người sản xuất, bất kể đó là nhà máy chế biến, doanh nghiệp hay nông hộ. Tất cả phải tham gia vào thị trường, tìm mọi cách mở rộng thị trường, làm tăng sức cầu. Nhà nước tạo ra thể chế, chính sách phát triển thị trường chứ không phải là người tiêu thụ hàng hóa, cũng không phải là nhà cứu trợ thường xuyên khi có trục trặc giữa cung - cầu.

Nhưng Nhà nước phải làm tốt công việc của mình bảo đảm vận hành của thể chế thị trường, cung cấp thông tin, dự báo và công tác quy hoạch. Khó khăn lớn nhất của nông nghiệp ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung là thị trường. “Phát triển thị trường bao gồm phần đáp ứng nhu cầu của thị trường hiện tại và làm tăng nhu cầu tiềm năng đối với sản phẩm nông nghiệp. Sự gia tăng nhu cầu là yếu tố quan trọng cho phát triển nông nghiệp” - Tiến sĩ Võ Hùng Dũng nói.

Các chuyên gia kinh tế khuyến nghị, sản xuất nông sản phải dựa trên nhu cầu thị trường, phải bao gồm yếu tố số lượng, chất lượng và chủng loại. Nghĩa là sản phẩm phải đa dạng và phải bảo đảm sự an toàn cho người tiêu dùng. Về điểm này, nông nghiệp, các sản phẩm nông nghiệp của ĐBSCL trong thời gian qua rất kém.

GS. TS Võ Tòng Xuân cho rằng: Tình trạng thiếu hụt thông tin thị trường đang đẩy nông dân sản xuất theo phong trào. Do đó, tái cơ cấu nông nghiệp phải xuất phát từ thị trường, xem thị trường cần gì, xem trọng thị trường trong nước, rồi từ đó tổ chức lại sản xuất.

Theo ông, tái cơ cấu thực ra là tái cấu trúc lĩnh vực nông nghiệp. Trước hết, cần xác định thị trường tiêu thụ sản phẩm để định hướng người dân canh tác theo chuỗi giá trị, có đầu tư hàm lượng chất xám cao, trên cơ sở quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững; phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, khu vực canh tác khác nhau.

“Chấm dứt việc sản xuất tự phát của nông dân, phải theo quy hoạch cụ thể từng nơi, chứ trồng rồi chặt thì bao giờ nông dân mới khá! Song song đó, chúng ta phải liên kết theo chuỗi giá trị, quy hoạch vùng, tìm thị trường đầu ra, xem người ta cần con gì, tiêu thụ cái gì? Hướng tới, cần tập trung sản xuất ra những sản phẩm nông sản nào phù hợp với nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu, cũng như quan tâm khâu cơ giới hóa, tận dụng phế phẩm trong nông nghiệp để nâng cao giá trị sản xuất. Sản xuất phải gắn với công tác đầu tư xây dựng nhà kho bảo quản, nhà máy chế biến sản phẩm đảm bảo trước khi cung cấp cho thị trường” - GS-TS Võ Tòng Xuân chia sẻ.

Ông Trần Thanh Nam nhấn mạnh: “ĐBSCL đủ điều kiện để trở thành trung tâm chế biến lương thực lớn nhất tham gia chuỗi giá trị nông sản của toàn cầu. Là vùng nông nghiệp lớn nhất nước, ĐBSCL có mức đóng góp 40,7% trong giá trị xuất khẩu nông - lâm - ngư nghiệp, 53,4% sản lượng lúa, 70% sản lượng trái cây, 68,7% sản lượng thủy sản, 90% sản lượng gạo xuất khẩu và chiếm 70% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước”.

Bộ trưởng Bộ NN&PTNT Cao Đức Phát cho biết, mục tiêu của tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới chính là nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho người nông dân được nhanh và bền vững hơn. Tái cơ cấu nông nghiệp không chỉ là thay đổi cây trồng, vật nuôi, mà phải điều chỉnh những hợp phần có tính chất cơ cấu, lâu dài, cần nhiều giải pháp đồng bộ.

Đặc biệt, phải thay đổi từ tư duy, cách làm của nông dân. Chúng ta phải nỗ lực tăng sản lượng, nâng cao giá trị gia tăng một cách bền vững cho nhà nông. Muốn vậy, phải chú trọng và phát triển thị trường, hỗ trợ nông dân nhanh chóng thích ứng với biến đổi và nhu cầu thị trường. Cùng với đó là quan tâm chuyển giao và hỗ trợ nông dân
khoa học - công nghệ, kể cả nông nghiệp công nghệ cao. “Lâu nay, sản phẩm nông nghiệp chỉ hướng đến xuất khẩu thô nhưng không chú ý đến phát triển thị trường trong nước, để hàng nhập khẩu tràn vào thay thế. Khía cạnh này có vấn đề của chính sách, quá thiên về khuyến khích xuất khẩu, ít chú ý vấn đề đầu tư cho sản xuất ở cấp quy mô nhỏ cho thị trường trong nước” - ông Cao Đức Phát nhấn mạnh.

SĨ NGUYÊN-NGÔ VĂN

.
.
.