Bài 3: Những thách thức
Bài 1: Chuyển từ lượng sang chất
Dù xuất khẩu gạo thời gian gần đây đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng những tháng đầu năm, tác động của thị trường thế giới dẫn đến giá gạo xuất khẩu bị giảm mạnh. Điều này ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất lúa - gạo trong nước.
Bên cạnh thách thức từ thị trường thế giới, ngành hàng lúa - gạo cũng đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ nhiều yếu tố khác.
TÁC ĐỘNG TỪ THỊ TRƯỜNG
Gạo là nhóm ngành hàng chịu tác động lớn từ thị trường tiêu thụ các nước nên một khi có biến động thì lúa - gạo trong nước cũng sẽ có những diễn biến bất thường. Nhìn lại thực tiễn gần đây mới thấy, khi Ấn Độ, một trong những nước xuất gạo lớn của thế giới, thực hiện lệnh cấm xuất khẩu gạo, giá gạo xuất khẩu các nước, trong đó có Việt Nam, tăng nhanh chóng, với mức đỉnh cao nhất từ năm 2008 đến nay. Thế nhưng, chỉ cần chính sách này được điều chỉnh, quỹ đạo giá gạo đã quay lại mức bình thường.
![]() |
Ngành hàng lúa - gạo còn chịu tác động của nhiều yếu tố bất lợi. |
Thực tế cho thấy, dù đã dự báo trước những khó khăn khi Ấn Độ gỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu gạo, nhưng những tháng đầu năm 2025, thị trường lúa - gạo nước ta vẫn bị một phen địa chấn mạnh. Do ảnh hưởng của thị trường thế giới, nên giá gạo xuất khẩu lẫn nội địa giảm sâu và nhanh khiến nhiều doanh nghiệp không kịp trở tay. Và một lẽ đương nhiên, kéo theo đó là giá lúa giảm sâu, quay về mức như trước đại dịch Covid-19 khiến nông dân gặp nhiều khó khăn.
Diễn biến thị trường lúa - gạo trong nước những tháng gần đây đã tác động ngay đến thu nhập của nông dân. Bởi theo ghi nhận thực tế cho thấy, giá lúa trong vụ đông xuân năm 2024 - 2025 thấp hơn vụ đông xuân năm 2023 - 2024 từ 1.500 - 2.200 đồng/kg và thấp hơn 1.500 - 2.000 đồng/kg so với vụ thu đông 2024. Nhưng thực tế cũng ghi nhận, tình hình tiêu thụ lúa - gạo bình thường, không xảy ra tồn đọng trong dân. Dù vậy, do diễn biến bất ngờ của thị trường nên nhiều doanh nghiệp, nhà máy chế biến, xay xát lúa - gạo phải xả kho để cắt lỗ.
Theo đại diện một chủ doanh nghiệp kinh doanh lúa - gạo tại huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang thời điểm vào tháng 10, 11-2024, doanh nghiệp nào cũng dự trữ gạo để đón thị trường xuất khẩu. Thời điểm đó, lúa khô mua vào có giá 11.000 đồng/kg. Doanh nghiệp mua dự trữ lại chờ Tết Nguyên đán để giá lên. Bởi ai cũng nghĩ, tết là thời điểm nhu cầu tiêu thụ tăng cao, gạo lên giá vì năm nào cũng vậy. Tuy nhiên, gạo chưa bán ra hết thì giá giảm nhanh nên doanh nghiệp lỗ nặng, buộc phải “xả hàng”.
Theo Cục Xuất nhập khẩu - Bộ Công thương, khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ hiện nay là nguồn cung không ổn định trong năm do cơ cấu mùa vụ. Việc sản xuất gặp nhiều rủi ro do biến đổi khí hậu, liên kết tiêu thụ hạn chế, cơ sở hạ tầng, công nghệ phục vụ bảo quản, chế biến. Bên cạnh đó, ngành hàng lúa - gạo nước ta còn đối mặt với sự cạnh tranh lớn, gia tăng bảo hộ, rào cản kỹ thuật, phòng vệ thương mại. Mặt khác, tỷ trọng xuất khẩu gạo vào các thị trường truyền thống cao, trong khi đó hình ảnh thương hiệu gạo của Việt Nam vẫn “nhạt nhòa”… |
Không chỉ doanh nghiệp bị thiệt hại, mà nông dân cũng điêu đứng khi giá lúa giảm sâu. Anh Nguyễn Bình Tân (xã Kiểng Phước, huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang) canh tác hơn 2 ha lúa, vụ đông xuân năm 2024 - 2025, gia đình anh gieo sạ giống lúa Đài Thơm 8. Lúa được các thương lái thu mua với giá 7.000 đồng/kg.
So với vụ đông xuân năm trước, giá lúa giảm khoảng 2.000 đồng/kg nên mỗi công đất, gia đình anh giảm lợi nhuận khoảng 2 triệu đồng. Anh Tân chia sẻ: “Phải giá lúa vụ này nằm ở mức như mấy vụ trước thì người trồng lúa có lời khá. Giá lúa này cũng gần bằng so với thời điểm mấy năm trước dịch rồi”.
Còn theo đánh giá chung của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, những tháng đầu năm 2025, thương mại lúa - gạo toàn cầu diễn biến phức tạp, nguồn cung thế giới tăng cao, nhu cầu nhập khẩu thấp trong khi các thị trường lớn đang thận trọng trong dự trữ và thu mua gạo đã tác động đến xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Trong nước, hiện là thời điểm đang thu hoạch rộ lúa vụ đông xuân tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nên có hiện tượng giá thu mua giảm so với cùng kỳ năm 2024. Diễn biến thị trường cho thấy, trong những ngày đầu tháng 3-2025, giá gạo xuất khẩu của nước ta tiếp tục giảm mạnh.
Cụ thể, gạo 100% tấm có giá 310 USD/tấn, gạo 5% tấm 393 USD/tấn, gạo 25% tấm 367 USD/tấn. Nhìn chung, nguyên nhân giá gạo giảm bởi các yếu tố như: Nguồn cung gạo thế giới tăng tạo áp lực lên thị trường toàn cầu, nhu cầu nhập khẩu giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi trong thời gian ngắn hạn, Ấn Độ kết thúc lệnh cấm xuất khẩu gạo và quay lại thị trường xuất khẩu với sản lượng dồi dào.
NHIỀU KHÓ KHĂN KHÁC
Đánh giá từ các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cho thấy, ngành hàng lúa - gạo hiện nay còn chịu tác động từ nhiều yếu tố khác. Theo Công ty Lương thực Tiền Giang, hiện nay, ngành hàng lúa - gạo phải đối mặt với nhiều thách thức. Trước hết là sự cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong bối cảnh thực hiện Nghị định 107/2018 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo.
Theo Công ty Lương thực Tiền Giang, những năm gần đây, nhiều nước nhập khẩu gạo đã có sự thay đổi sâu sắc về chính sách đối với mặt hàng lúa - gạo và làm thay đổi sâu sắc quan hệ cung - cầu theo hướng thị trường thuộc vào người mua. Cụ thể, các nước nhập khẩu thực hiện thuế hóa, áp dụng các rào cản thương mại cho mặt hàng gạo; đồng thời, thay đổi phương thức nhập khẩu gạo, cho phép nhiều nguồn cung tham gia các đợt thầu G2P để có nguồn cung gạo với giá cạnh tranh và chất lượng cao hơn. Các nước nhập khẩu cũng nỗ lực nâng cao năng lực sản xuất trong nước hướng đến tự chủ về lương thực. Các nước sản xuất như: Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Pakistan tập trung tận dụng lợi thế về điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, điều kiện canh tác để sản xuất gạo có chất lượng và có thương hiệu. Một số quốc gia khác như: Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam, diện tích đất trồng lúa có thể sẽ bị thu hẹp do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Gạo trắng hạt dài là loại gạo xuất khẩu chủ yếu, chiếm thị phần lớn trên thị trường quốc tế. Tất cả các quốc gia trong tốp 5 quốc gia xuất khẩu lớn nhất đều xuất khẩu gạo trắng hạt dài. Tuy nhiên, thời gian gần đây có xu hướng chuyển sang sản xuất và xuất khẩu gạo thơm, gạo đặc sản. Việt Nam đã chuyển sang xuất khẩu gạo thơm, nhưng chưa xây dựng thương hiệu gạo thơm nói riêng và thương hiệu gạo Việt Nam nói chung. Thực tiễn cũng cho thấy, Trung Quốc là thị trường tiêu thụ gạo, lương thực lớn nhất thế giới. Quốc gia này có dấu hiệu chững lại vì gặp nhiều thách thức như: Tăng cường kiểm soát, kiểm tra chặt chẽ công tác bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; đưa các mặt hàng lương thực, thực phẩm nhập khẩu vào chính ngạch; giám sát, quản lý hàng hóa nhập khẩu thương mại và giám sát giao dịch thương mại biên giới. |
Yêu cầu cao về chất lượng, yêu cầu quản lý cao đầu vào - quy trình sản xuất - đầu ra; rào cản kỹ thuật, dư lượng thuốc trừ sâu, dư lượng kháng sinh cũng là những thách thức hiện nay.
Mặt khác, cạnh tranh về giá cả và chất lượng gạo với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước và quốc tế là thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp phải đối mặt trong thời gian tới. Sự cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư mạnh vào thiết bị, công nghệ, nhân sự, chất lượng sản phẩm trong điều kiện thiếu nguồn lực tài chính.
Với góc độ cơ quan quản lý nhà nước, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Tiền Giang cho rằng, hiện nay, dù hệ thống thủy lợi cho canh tác lúa được đầu tư nâng cấp để phòng, chống triều cường, lũ, ngăn mặn, nhưng để phục vụ vùng sản xuất chuyên canh, quy mô lớn, áp dụng đồng bộ cơ giới hóa… thì cần phải được tiếp tục đầu tư, đáp ứng yêu cầu canh tác trong tình hình mới.
Một hạn chế có thể thấy rõ lâu nay là việc sản xuất lúa ở quy mô nông hộ nhỏ, liên kết sản xuất - tiêu thụ lúa - gạo còn hạn chế. Tại vùng trọng điểm sản xuất lúa có thành lập các hợp tác xã và thực hiện một số liên kết sản xuất - tiêu thụ ổn định.
Tuy nhiên, năng lực hoạt động hợp tác xã còn yếu, chưa đi vào chiều sâu. Liên kết tiêu thụ bước đầu được hình thành, nhưng chưa bền vững. Thách thức của biến đổi khí hậu gây thiệt hại đến sản xuất lúa vẫn còn nguy cơ tiềm ẩn. Mặt khác, biến động thị trường, sự thay đổi thất thường của giá lúa ảnh hưởng đến tâm lý sản xuất của nông dân.
Hiện nay, xu hướng cạnh tranh với các nước xuất khẩu khác, yêu cầu về kỹ thuật, kiểm dịch thực vật, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, chất lượng... của nước nhập khẩu ngày càng siết chặt. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp, thương lái thu mua lúa rộng khắp trên địa bàn. Song quy mô nhỏ, hệ thống sơ chế, chế biến, bảo quản ở mức tương đối, chất lượng gạo chưa cao, chưa có nhiều sản phẩm chế biến từ lúa - gạo mang tính cạnh tranh cao.
Nếu nhìn nhận một cách tổng thể, ngoài yếu tố biến động của thị trường dẫn đến giá cả tăng giảm có thể là đột biến, những vấn đề mang tính nội tại của ngành hàng lúa - gạo đã diễn ra nhiều năm. Mặc dù thời gian gần đây, tư duy trong sản xuất nông nghiệp nói chung đã được thay đổi, kinh tế nông nghiệp đã được tính toán, song việc chuyển động trong chuỗi sản xuất ngành hàng lúa - gạo diễn ra còn chậm. Điều này đòi hỏi sự chuyển động của ngành hàng này cần diễn ra nhanh, hiệu quả hơn trong thời gian tới.
M. THÀNH - A. PHƯƠNG
(còn tiếp)