Bài 1: Tìm giải pháp đột phá cho cây lúa
Trải qua 50 năm kể từ Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2025), cây lúa trên quê hương Tiền Giang đã trải qua nhiều thăng trầm nhưng cũng rất đỗi tự hào. Và giờ đây, Tiền Giang từng bước đã vươn lên trở thành một trong những tỉnh có sản lượng lúa - gạo xuất khẩu lớn của cả nước.
Trước nhu cầu về lương thực để giải quyết bài toán thiếu ăn của người dân sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước đã đặt ra cho lãnh đạo tỉnh phải nỗ lực tìm giải pháp đột phá nhằm phát triển nhanh cây lúa để đảm bảo lương thực. Trong bối cảnh đó, nhiều giải pháp đã được triển khai thực hiện nhằm tăng năng suất cây lúa, giúp cho cây trồng này phát triển bền vững.
Sau ngày giải phóng miền Nam, ngành Nông nghiệp của tỉnh chưa phát triển; sản xuất lúa - gạo còn yếu kém; thiên tai, lũ lụt, dịch bệnh thường xuyên xuất hiện và gây hại, đặc biệt là dịch rầy nâu bùng phát rất nhanh nên sản xuất lúa - gạo gặp rất nhiều khó khăn, từ đó dẫn đến tình trạng thiếu lương thực - thực phẩm trầm trọng. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải tìm giải pháp đột phá cho ngành Nông nghiệp, đặc biệt là với cây lúa.
THỰC HIỆN NHIỀU GIẢI PHÁP ĐỘT PHÁ
Nền nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) sau năm 1975 bị tàn phá nặng nề do hậu quả của chiến tranh để lại. Lúc ấy, đồng ruộng bị bom đạn cày xới, đất hoang hóa chiếm diện tích lớn; các công trình phục vụ nông nghiệp, đường giao thông bị tàn phá; thủy lợi nội đồng bị bồi lắng; nông dân không có vốn… nên việc khôi phục sản xuất gặp rất nhiều khó khăn. Mùa gặt năm 1975, toàn tỉnh Tiền Giang thu hoạch được khoảng 300 ngàn tấn lúa.
![]() |
Nông dân xã Long Bình Điền, huyện Chợ Gạo cày trở đất năm 1977. Ảnh: Trần Biểu |
Với tinh thần phấn khởi, các gia đình nông dân hăng hái rời bỏ các khu gom dân trở về quê cũ, ra sức phục hóa, khai hoang phát triển sản xuất. Không may là các vụ mùa sau đó do giống thoái hóa, thiếu phân bón và thuốc trừ sâu nên bị thất bát. Đặc biệt năm 1978, vùng ĐBSCL nói chung và Tiền Giang nói riêng phải hứng chịu trận lũ lụt lịch sử, vừa bị sâu rầy tấn công nên các vụ lúa bị tổn thất nặng nề.
Trước thực trạng nhiều khó khăn đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, các chương trình kinh tế được đề ra nhằm tập trung phát triển nông nghiệp; trong đó, tỉnh rất chú trọng phát triển cây lúa (Chương trình kinh tế lúa - gạo) với giải pháp đột phá về thủy lợi, giống mới và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tạo điều kiện cho sản xuất lúa - gạo của tỉnh đi lên nhanh chóng.
![]() |
Ra quân diệt rầy năm 1978. Ảnh: Trần Biểu |
Cụ thể, trước tình hình thiếu lương thực sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng bộ tỉnh đã năng động, sáng tạo đề ra các chương trình kinh tế, trong đó có Chương trình Lúa năng suất cao (kinh tế lúa - gạo) nhằm tập trung phát triển nông nghiệp với giải pháp đột phá về thủy lợi, giống mới và áp dụng tiến bộ kỹ thuật, trong đó tập trung nạo vét hàng loạt kinh mương phục vụ tưới tiêu nông nghiệp.
Bước đột phá đầu tiên của ngành Nông nghiệp là triển khai xây dựng vùng ngọt hóa với Dự án Ngọt hóa Gò Công. Lúc bấy giờ, đây là một trong những dự án thủy lợi quan trọng và hiệu quả nhất Nam bộ, có thể xem là cuộc cách mạng trong sản xuất nông nghiệp được triển khai trên địa bàn tỉnh Tiền Giang được Bộ Nông nghiệp (nay là Bộ Nông nghiệp và Môi trường) và bộ, ngành Trung ương hết sức hỗ trợ.
Với chương trình ngọt hóa này, các huyện phía Đông từ gieo cấy lúa chỉ 1 vụ mùa năng suất thấp đã từng bước trở thành một trong những địa bàn sản xuất lương thực quan trọng của tỉnh cho đến nay. Tiếp theo đó, chủ trương khai hoang, phục hóa vùng Đồng Tháp Mười đã giúp chuyển 7.000 ha lúa canh tác 1 vụ tăng lên 2 vụ, rồi 3 vụ/năm..., hình thành vùng lúa năng suất cao ở các huyện phía Tây của tỉnh.
Bên cạnh giải pháp thủy lợi là giải pháp về giống. Để đối phó với dịch sâu rầy năm 1978 - 1979 và phục vụ thâm canh, tăng vụ, giống mới thời kỳ sau giải phóng được xem là giải pháp cực kỳ quan trọng. Ngành Nông nghiệp đã tổ chức xây dựng mạng lưới nhân giống từ tỉnh, huyện đến cơ sở; trong đó, lấy nông dân sản xuất giỏi làm nòng cốt. Toàn tỉnh đã xây dựng được hơn 300 tổ nhân giống để phục vụ cho sản xuất.
Từ năm 1980, toàn tỉnh đã sử dụng phổ biến các giống lúa mới kháng sâu rầy (IR, LĐ2, LĐ4...) ngắn ngày, nhiều giống chịu được mặn, phèn; thay đổi dần tập quán sử dụng lúa ăn làm lúa giống. Giống, kỹ thuật được sử dụng phổ biến trong sản xuất góp phần quyết định trong việc chuyển đổi cơ cấu mùa vụ sản xuất, tăng vụ.... và nhiều năm liền sau đó, chủ động quản lý sâu bệnh gây hại, sản xuất thích ứng điều kiện bất lợi bằng biện pháp canh tác ngay từ đầu vụ để bảo vệ năng suất và sản lượng cây trồng.
VƯỢT NGƯỠNG 1 TRIỆU TẤN LÚA
Nhờ thực hiện đồng bộ nhiều chương trình, cộng với việc đưa giống lúa ngắn ngày vào sản xuất nên Tiền Giang là tỉnh đi đầu trong khu vực ĐBSCL có sản lượng lương thực đạt cao.
Đồng chí Võ Văn Men, Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật tỉnh Tiền Giang khẳng định: Thực tiễn đã chứng minh, từ việc chọn đúng giải pháp đột phá là khâu thủy lợi đã mang lại hiệu quả nhanh nhất và thiết thực nhất cho phát triển kinh tế - xã hội, hình thành nên một hệ thống kinh mương chằng chịt, liên thông trong toàn tỉnh, tạo điều kiện cho sản xuất nông nghiệp, trong đó chủ yếu là phục vụ canh tác lúa… đi lên nhanh chóng.
Sản xuất lúa phát triển theo hướng thâm canh, tăng vụ từ gieo cấy chỉ 1 vụ mùa năng suất thấp đã từng bước trở thành một trong những địa bàn sản xuất lương thực quan trọng của tỉnh với 3 vụ/năm.
![]() |
Thu hoạch lúa. Ảnh: MINH THÀNH |
Những năm gần đây, để đáp ứng yêu cầu thị trường, tỉnh tiếp tục đều tiết cơ cấu giống sản xuất lúa theo hướng thích nghi cao cho từng vùng sinh thái và chuyển dịch mạnh sang các giống lúa chất lượng cao phù hợp với yêu cầu thị trường xuất khẩu với một số giống lúa có triển vọng, năng suất cao, chất lượng gạo cao như: OM18, OM380, OM5451...
Diện tích sản xuất giống lúa phẩm chất trung bình hiện nay giảm nhiều so với trước đây, hiện nay chỉ còn chiếm khoảng 1,7% diện tích gieo trồng lúa của tỉnh.
Đồng chí Võ Văn Men cho biết, năm 1990, lần đầu tiên sản lượng lúa tại Tiền Giang vượt ngưỡng 1 triệu tấn và đã có 61.000 tấn xuất khẩu. Quá trình hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, những năm sau đó, sản lượng lương thực của Tiền Giang liên tục vượt ngưỡng 1 triệu tấn (năm 2005 đã đạt 1,3 triệu tấn lúa, xuất khẩu trên 300 ngàn tấn gạo), góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Tiếp theo đó, sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng hình thành các vùng chuyên canh sản xuất lúa đặc sản và lúa thơm, lúa chất lượng cao. Đến năm 2015, toàn tỉnh có 230.605 ha gieo trồng, năng suất bình quân gần 6 tấn/ha (tăng gấp 2,3 lần so với năm 1976), sản lượng hơn 1,3 triệu tấn lúa các loại.
HỮU THÔNG
(còn tiếp)