.

Công tác DS - KHHGĐ năm 2013: Đối mặt 4 thách thức lớn

Cập nhật: 04:41, 22/01/2013 (GMT+7)

Ngành DS - KHHGĐ tỉnh nhà đã và đang nỗ lực lớn nhằm nâng cao chất lượng dân số, cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản (SKSS), duy trì mức sinh thấp hợp lý, giải quyết tốt những vấn đề về cơ cấu dân số, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu đó, trong năm 2013 công tác DS - KHHGĐ tỉnh sẽ phải đối mặt với 4 thách thức lớn.

1. Tỷ số giới tính khi sinh tăng cao

Kết quả tổng điều tra Dân số và nhà ở năm 2009 cho thấy, tỷ số giới tính khi sinh (GTKS) của tỉnh là 111 bé trai/100 bé gái. Liên tục từ năm 2010 đến nay tỷ số GTKS của tỉnh luôn dao động ở mức 111-113 bé trai/100 bé gái (tỷ số GTKS bình thường từ 103-107 bé trai/100 bé gái).

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân bằng GTKS là do những quan niệm sai lầm, tâm lý chuộng con trai hơn vẫn thể hiện rõ trong đời sống xã hội Việt Nam. Phổ biến là vẫn còn tình trạng quan niệm có con trai để nối dõi tông đường, thờ cúng tổ tiên và chăm sóc cha mẹ già.

Chính sách dân số của Việt Nam hiện nay khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ nên sinh từ 1-2 con, cộng với tư tưởng trọng nam khinh nữ dẫn đến nhiều gia đình muốn sinh ít nhất là một con trai.

Tỷ số GTKS tăng sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực đối với dân số nói riêng và các vấn đề kinh tế - xã hội nói chung. Tác động của sự chênh lệch này sẽ không dễ nhận thấy ngay, nhưng những năm tiếp theo sau sẽ gây ra tình trạng “nam thừa, nữ thiếu”. Trong đó, đáng lo ngại nhất là tình trạng nam giới trong độ tuổi kết hôn sẽ rất khó khăn trong việc tìm kiếm bạn đời. Tình trạng này sẽ diễn ra dần dần và càng về những năm sau thì số lượng nam thừa càng lớn.

2. Chất lượng dân số chưa được quan tâm đúng mức

Các mô hình, đề án nâng cao chất lượng dân số (Đề án Sàng lọc trước sinh, sàng lọc sơ sinh; mô hình: Tư vấn & khám sức khỏe tiền hôn nhân,…) chỉ mới được thực hiện thử nghiệm ở một số huyện, xã, vì vậy số người thụ hưởng những lợi ích của chương trình chưa cao.

Mỗi năm Tiền Giang có từ 23.000 - 25.000 trẻ được sinh ra, nhưng số trẻ em được thực hiện sàng lọc các bệnh lý chỉ từ 3.500 - 5.000 trẻ, chiếm tỷ lệ 15-20%. Nguyên nhân là do kinh phí để thực hiện các xét nghiệm này còn bao cấp, Nhà nước chi trả toàn bộ chi phí để thực hiện xét nghiệm sàng lọc như: chi phí công lấy mẫu, xét nghiệm, hóa chất…

Số bà mẹ được thực hiện các xét nghiệm sàng lọc trước sinh nhằm phát hiện những dị tật, khuyết tật… cũng chỉ chiếm khoảng 5% tổng số bà mẹ mang thai. Nguyên nhân là do hiện nay tuyến tỉnh chỉ siêu âm được hình thái học thai nhi, chưa thực hiện được các xét nghiệm theo quy trình sàng lọc chẩn đoán trước sinh và sơ sinh theo quy định của Bộ Y tế như: xét nghiệm double test, tripple test máu mẹ; xét nghiệm nước ối…

Đối với mô hình Tư vấn & khám sức khỏe tiền hôn nhân chỉ mới được triển khai ở các huyện có Đề án 52, số người tham gia mô hình chưa nhiều.

3. Nhiều vấn đề về KHHGĐ, chăm sóc SKSS chưa được giải quyết tốt

Chất lượng dịch vụ KHHGĐ một số nơi còn hạn chế, việc điều phối cung ứng phương tiện tránh thai (PTTT) chưa linh hoạt, chưa chủ động được nguồn cung cấp (phụ thuộc vào tuyến Trung ương), dẫn đến có lúc thiếu PTTT để cung cấp. Cụ thể trong năm 2012, khách hàng đăng ký sử dụng que cấy tránh thai không được đáp ứng.

Một số phụ nữ nông thôn ít tiếp cận dịch vụ chăm sóc SKSS, chưa ý thức cao về việc tự chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho mình, còn trông chờ dịch vụ CSSKSS miễn phí của Nhà nước.

Việc đáp ứng nhu cầu thông tin, kiến thức, dịch vụ về SKSS cho các nhóm dân số đặc thù như vị thành niên, thanh niên, nam giới, người di cư, người khuyết tật, người có HIV...; dự phòng và điều trị các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản/bệnh lây truyền qua đường tình dục, vô sinh còn nhiều hạn chế.

4.  Thông tin, số liệu về DS/SKSS chưa đáp ứng nhu cầu quản lý, xây dựng kế hoạch và chính sách

Thông tin, số liệu về DS/SKSS còn thiếu chính xác, chưa đầy đủ, kịp thời, giữa các nguồn số liệu còn sự khác biệt lớn. Công tác nghiên cứu, phân tích, dự báo các vấn đề DS/SKSS còn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý, điều hành.

Từ những thách thức trên đòi hỏi Công tác DS -KHHGĐ trong thời gian tới cần sự tham gia, hưởng ứng của toàn xã hội, sự quan tâm hơn nữa của các cấp ủy Đảng và chính quyền, sự phối hợp của các sở, ban, ngành, đoàn thể và sự đồng lòng của nhân dân.

NGUYỄN THÀNH SANG

.
.
.