Thuốc Molnupiravir ảnh hưởng đến thai nhi, trẻ em và tinh trùng như thế nào?
(ABO) Vừa qua, Hội đồng Tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc của Bộ Y tế có thông báo không dùng thuốc Molnupiravir cho phụ nữ có thai, trẻ dưới 18 tuổi do có tác dụng phụ, thuốc cũng ảnh hưởng đến tinh trùng của nam giới. Hội đồng Khuyến cáo Molnupiravir có thể ảnh hưởng đến tinh trùng, mặc dù rủi ro được coi là thấp. Vì vậy, nam giới sử dụng Molnupiravir nên sử dụng một phương pháp tránh thai tin cậy trong thời gian điều trị và ít nhất 3 tháng sau liều Molnupiravir cuối cùng.
Tại sao thuốc Molnupiravir lại ảnh hưởng đến phụ nữ có thai, trẻ dưới 18 tuổi và tinh trùng nam giới? Thuốc ảnh hưởng tới mức độ nào? Có phòng tránh ảnh hưởng được không?
Để hiểu rõ vấn đề này, chúng tôi xin được chia sẻ một số thông tin như sau:
Thuốc ức chế sự nhân bản, sinh sôi của virus
Chúng ta biết rằng sau khi xâm nhập vào cơ thể con người, tế bào virus sẽ sao chép và nhân lên một cách nhanh chóng trong cơ thể người, từ đó gây ra các triệu chứng bệnh. Từ vài ngàn con, trong một thời gian ngắn nó nhân bản để sinh sôi, nảy nở thật nhanh, lên hàng triệu triệu con, nhiều đến mức nó phá vỡ tế bào ban đầu, rồi tiếp tục tấn công tế bào khác, nó tiếp tục nhân bản cho đến khi các cơ quan của cơ thể bị tổn thương không phục hồi. Các loại thuốc kháng virus hoạt động bằng cách làm gián đoạn quá trình nhân lên này, thuốc tấn công các phần khác nhau trong vòng đời của coronavirus, phá vỡ các phương tiện mà virus tự nhân lên.
Riêng thuốc Molnupiravir hoạt động bằng cách ức chế một loại enzyme mà virus cần nó để sao chép, rồi đưa các sai lầm vào mã di truyền của Covid-19, khiến virus tạo ra các bản sao bị lỗi và không thể nhân lên, không thể sinh sôi nảy nở được. Thuốc này có hiệu quả chống lại các biến thể mới nhất của Covid-19, làm giảm từ 30% - 50% tỷ lệ nhập viện.
Thuốc có thể gây lỗi trong gen ADN di truyền của chính bệnh nhân
Thật không may, thuốc Molnupiravir vừa gây lỗi để cản trở sự nhân lên của virus, nó cũng có thể vừa gây ra lỗi trong gen ADN di truyền của chính bệnh nhân, hoặc ở thai nhi đang phát triển.
Nếu các tế bào của con người đang sao chép, Molnupiravir sẽ gây đột biến ADN, đột biến đó có thể góp phần vào sự phát triển của ung thư, hoặc gây dị tật bẩm sinh ở thai nhi đang phát triển hoặc thông qua việc kết hợp vào các tế bào tiền thân tinh trùng.
Thuốc chỉ nhắm vào các tế bào phân chia ở người. Như phụ nữ mang thai, tế bào thai nhi đang liên tục phân chia để trưởng thành, ở trẻ em tế bào ở sụn khớp phân chia để phát triển chiều cao, còn ở đàn ông quá trình sinh tinh trùng diễn ra liên tục, mỗi tinh trùng non đòi hỏi khoảng 72 đến 74 ngày để trưởng thành hoàn toàn. Do đó, nếu dùng thuốc Molnupiravir ở phụ nữ mang thai sẽ gây dị dạng bào thai, trẻ em dưới 18 tuổi sẽ chậm phát triển chiều cao, đàn ông sẽ có tinh trùng bất thường về cấu trúc hoặc chức năng.
Vấn đề đó nghiêm trọng đến mức nào?
Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Đại học Bắc Carolina đã nghiên cứu việc sử dụng thuốc Molnupiravir ở chuột hamster bị cô lập trong 32 ngày và phát hiện ra rằng thuốc đã gây ra đột biến trong ADN. Brianne Barker, một nhà sinh vật học tại Đại học Drew, nói rằng các tế bào chuột hamster bị cô lập đã tiếp xúc với thuốc lâu hơn đáng kể so với bệnh nhân Covid-19.
Tế bào chuột hamster cũng khác với các tế bào bạn thực sự tìm thấy trong một sinh vật, khiến khó biết mức độ nguy hiểm ở người. “Chúng tôi thấy phân tử này có nguy cơ gây đột biến rất thấp", Tiến sĩ Roy Baynes, Giám đốc y tế của Merck, cho biết trong một cuộc phỏng vấn. "Thuốc này được sử dụng trong năm ngày, và mục tiêu là tiêu diệt virus một cách nhanh chóng, và đây không phải là một phương pháp điều trị lâu dài."
Chấp nhận rủi ro để cứu được mạng sống người bệnh
Người lớn tuổi, người có bệnh nền, sẽ có nguy cơ mắc bệnh nặng do nhiễm coronavirus cao hơn. Chọn lựa giữa sinh mạng và nguy cơ đột biến, người ta chọn sinh mạng, vì sinh mạng mỗi người chỉ có một, còn đột biến có thể can thiệp điều trị lâu dài sau khi khỏi bệnh.
Các nhà khoa học khẳng định lợi ích của thuốc lớn hơn rủi ro rất nhiều. Tiến sĩ Barker lưu ý rằng người lớn dễ dàng chấp nhận nguy cơ đột biến, vì người lớn tuổi có nguy cơ mắc bệnh Covid-19 cao, nguy cơ bệnh nặng đặc biệt cao, hơn nữa rất ít tế bào người lớn đang phân chia, khác với trẻ em hay phụ nữ mang thai, cô nói. "Trong khi ở một người trẻ tuổi đang có kế hoạch có con, hoặc một cá nhân trẻ hơn đang mang thai, họ có thể muốn dùng một loại thuốc thay thế khác”. Riêng tinh trùng từ khi sinh ra, nếu không được xuất ra ngoài, nó sẽ tự tiêu diệt trong 74 ngày.
Tiến sĩ Swanstrom, nhà nghiên cứu của Đại học Bắc Carolina, cho biết ông đã trăn trở với việc có nên lên tiếng về những rủi ro với lý thuyết này hay không, so với tiềm năng của thuốc để cứu sống người bệnh. Ông nói thêm, "Nếu rủi ro thực sự tầm thường, thì sẽ là một sai lầm tồi tệ nếu không có thuốc Molnupiravir."
Làm sao tránh tác dụng phụ của Molnupiravir?
Đơn giản là dùng thuốc Molnupiravir theo chỉ định của bác sĩ điều trị, không tự mua về dùng theo sự mách bảo của người không chuyên môn. Thuốc này dành điều trị cho những trường hợp Covid-19 nhẹ hoặc trung bình, những người trên 60 tuổi, những người có bệnh nền. Không dùng cho người dưới 18 tuổi, phụ nữ mang thai và cho con bú.
Riêng nam giới phải thận trọng, ít nhất 3 tháng (100 ngày) sau khi ngưng dùng thuốc để quyết định có con, vì lúc này là tinh trùng mới được sản xuất, không bị ảnh hưởng bởi thuốc kháng virus. Không dùng Molnupiravir cho người mắc Covid-19 không triệu chứng. Thuốc chỉ có hiệu quả khi dùng sớm trong 5 ngày đầu tiên phát hiện triệu chứng, và dùng đủ thời gian 5 ngày mặc dù xét nghiệm đã âm tính.
BS NGUYỄN THÀNH ÚC