.

Ước tính có khoảng 390 triệu ca nhiễm vi rút Dengue mỗi năm

Cập nhật: 08:22, 20/05/2022 (GMT+7)

(ABO) Đại dịch Covid-19 đang gây áp lực lớn cho hệ thống quản lý và chăm sóc sức khỏe trên toàn thế giới. Tác động của dịch Covid-19 và bệnh sốt xuất huyết (SXH) có thể gây ra những hậu quả nặng nề đối với những quần thể có nguy cơ mắc bệnh. Phòng, chống SXH phụ thuộc vào các biện pháp kiểm soát véc tơ hiệu quả. Sự tham gia bền vững của cộng đồng có thể cải thiện đáng kể các nỗ lực kiểm soát véc tơ.

TRUYỀN BỆNH

SXH là một bệnh nhiễm vi rút truyền sang người qua vết đốt của muỗi nhiễm bệnh, là nguyên nhân hàng đầu gây ra bệnh tật nghiêm trọng và tử vong ở một số nước châu Á và châu Mỹ Latinh. SXH được tìm thấy ở các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới, chủ yếu ở các khu vực thành thị và bán đô thị.Véc tơ trung gian truyền bệnh chính là muỗi Aedes aegypti và ở mức độ thấp hơn là Aedes albopictus. Virus Dengue (DENV) gây bệnh SXH, có 4 kiểu huyết thanh DENV và một người có thể bị nhiễm 4 lần.

Tỷ lệ mắc bệnh SXH trên toàn cầu đã tăng lên đáng kể với khoảng một nửa dân số thế giới đang có nguy cơ mắc bệnh. Mặc dù ước tính có khoảng 100 - 400 triệu ca nhiễm trùng xảy ra mỗi năm, hơn 80% nói chung là nhẹ và không có triệu chứng. Trong khi nhiều trường hợp nhiễm DENV chỉ gây ra bệnh nhẹ, cấp tính giống như cúm nhưng cũng có tỷ lệ bệnh SXH nặng và biến chứng có thể gây chết người. Phòng, chống SXH phụ thuộc vào các biện pháp kiểm soát véc tơ hiệu quả. Sự tham gia bền vững của cộng đồng có thể cải thiện đáng kể các nỗ lực kiểm soát véc tơ.

Muỗi Aedes aegypti được coi là vật trung gian truyền bệnh chính của DENV. Nó có thể sinh sản trong các vật chứa tự nhiên như hốc cây và bìm bìm, nhưng ngày nay nó đã thích nghi tốt với môi trường sống đô thị và sinh sản chủ yếu trong các thùng chứa nhân tạo bao gồm chậu bùn, thùng chứa bỏ đi và lốp xe đã qua sử dụng, cống thoát nước mưa... SXH là một căn bệnh lưu hành ở các trung tâm đô thị đông dân cư. Muỗi vằn đốt người vào ban ngày; thời gian vào sáng sớm và chiều tối trước khi mặt trời lặn. Muỗi cái thường kiếm ăn nhiều lần giữa mỗi thời kỳ đẻ trứng làm lây truyền nếu có cá thể bị nhiễm bệnh. Một khi con cái đã đẻ trứng, những quả trứng này có thể tồn tại trong vài tháng trong điều kiện khô ráo và sẽ nở khi chúng tiếp xúc với nước.

z3425034262292_6a5a45b7f3d5fe0ffc3478fd0f18beb7.jpg
 

Aedes albopictus, véc tơ trung gian truyền bệnh SXH thứ cấp, đã lây lan sang hơn 32 tiểu bang ở Hoa Kỳ và hơn 25 quốc gia ở khu vực châu Âu, phần lớn là do buôn bán quốc tế lốp xe đã qua sử dụng (môi trường sinh sản) và các hàng hóa khác. Nó sống ở thảm thực vật rậm rạp bao gồm các đồn điền có liên quan đến việc tăng nguy cơ phơi nhiễm cho lao động nông thôn như những người ở đồn điền cao su và dầu cọ, nhưng nó cũng được phát hiện rất nhiều ở các khu vực thành thị. Muỗi vằn có tính thích nghi cao. Sự lây lan theo địa lý của nó phần lớn là do khả năng chịu đựng các điều kiện lạnh hơn, khi còn là trứng và trưởng thành.

ĐẶC ĐIỂM CỦA BỆNH

Trong khi phần lớn các trường hợp SXH không có triệu chứng hoặc có các triệu chứng nhẹ, nó có thể biểu hiện thành một bệnh nặng, giống như bệnh cúm, ảnh hưởng đến trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ và người lớn, nhưng hiếm khi gây tử vong. Các triệu chứng thường kéo dài từ 2 - 7 ngày, sau thời gian ủ bệnh từ 4 - 10 ngày sau khi bị muỗi nhiễm bệnh đốt. WHO phân loại bệnh SXH thành 2 loại chính: Bệnh SXH (có/không có dấu hiệu cảnh báo) và bệnh SXH nặng. Việc phân loại bệnh SXH có hoặc không có dấu hiệu cảnh báo được thiết kế để giúp các nhà y tế phân loại bệnh nhân nhập viện, đảm bảo theo dõi chặt chẽ và giảm thiểu nguy cơ phát triển bệnh SXH nặng hơn.

Cần nghi ngờ SXH khi sốt cao 40°C kèm theo 2 trong số các triệu chứng sau trong giai đoạn sốt (2 - 7 ngày): Nhức đầu dữ dội, đau sau mắt, đau cơ và khớp, buồn nôn, nôn mửa, viêm tuyến, phát ban.

SXH nặng: Giai đoạn quan trọng thường khoảng 3 - 7 ngày sau khi phát bệnh. Trong 24 - 48 giờ của giai đoạn quan trọng, một phần nhỏ bệnh nhân có thể biểu hiện các triệu chứng xấu đi đột ngột. Đó là lúc bệnh nhân hạ sốt (dưới 380C), các dấu hiệu cảnh báo liên quan đến SXH nặng có thể biểu hiện như đau bụng nặng, nôn mửa dai dẳng, thở nhanh, chảy máu nướu răng hoặc mũi, mệt mỏi, bồn chồn, gan to, có máu trong chất nôn hoặc phân. SXH nặng là một biến chứng có thể gây tử vong, do huyết tương bị rò rỉ, tích tụ chất lỏng, suy hô hấp, chảy máu nặng hoặc suy cơ quan.

Nếu bệnh nhân biểu hiện các triệu chứng này trong giai đoạn nguy kịch, cần theo dõi sát sao trong 24 - 48 giờ tiếp theo để được chăm sóc y tế thích hợp, tránh biến chứng và nguy cơ tử vong. Việc giám sát chặt chẽ cũng nên được tiếp tục trong suốt giai đoạn dưỡng bệnh.

Không có thuốc điều trị đặc hiệu cho bệnh SXH. Bệnh nhân nên nghỉ ngơi, uống đủ nước và đi khám. Tùy thuộc vào biểu hiện lâm sàng và các trường hợp khác, bệnh nhân có thể được đưa về nhà, được chuyển đến xử trí tại bệnh viện, hoặc yêu cầu điều trị cấp cứu và chuyển tuyến khẩn cấp. Có thể thực hiện các biện pháp chăm sóc hỗ trợ như thuốc hạ sốt và thuốc giảm đau để kiểm soát các triệu chứng đau nhức cơ và sốt. Các lựa chọn tốt nhất để điều trị các triệu chứng này là acetaminophen hoặc paracetamol.

Đối với bệnh SXH nặng, sự chăm sóc y tế của các bác sĩ và y tá có kinh nghiệm với các tác động và sự tiến triển của bệnh có thể cứu sống người bệnh, giảm tỷ lệ tử vong xuống dưới 1% ở phần lớn các quốc gia.

PHÒNG, CHỐNG SXH

Vắc xin SXH đầu tiên, Dengvaxia® (CYD-TDV) do Sanofi Pasteur phát triển đã được cấp phép vào tháng 12-2015 và hiện đã được cơ quan quản lý ở 20 quốc gia chấp thuận. Việc sử dụng vắc xin CYD-TDV được nhắm mục tiêu cho những người sống trong vùng lưu hành bệnh, từ 9 - 45 tuổi, những người đã từng bị nhiễm vi rút SXH ít nhất 1 đợt trong quá khứ. Một số vắc xin SXH bổ sung đang được đánh giá. Tiêm chủng nên được coi là một phần của chiến lược tổng hợp phòng, chống và kiểm soát bệnh SXH. Cần phải tuân thủ các biện pháp phòng, chống dịch bệnh khác như kiểm soát véc tơ truyền bệnh được thực hiện tốt và bền vững. Các cá nhân, dù đã tiêm phòng hay chưa, nên đi khám ngay nếu có các triệu chứng giống SXH.

Kiểm soát môi trường: Đô thị hóa, đặc biệt là không theo quy hoạch, có liên quan đến việc lây truyền bệnh SXH thông qua nhiều yếu tố xã hội và môi trường: Mật độ dân số, sự di chuyển của con người, khả năng tiếp cận nguồn nước đáng tin cậy, thực hành trữ nước... Nguy cơ của cộng đồng đối với bệnh SXH còn phụ thuộc vào kiến thức, thái độ và thực hành của người dân đối với bệnh SXH, cũng như việc thực hiện các hoạt động kiểm soát véc tơ bền vững thường quy trong cộng đồng. Do đó, các nguy cơ dịch bệnh có thể thay đổi và thay đổi theo biến đổi khí hậu ở các khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới và các vật trung gian có thể thích nghi với môi trường và khí hậu mới.

Bảo vệ cá nhân và cộng đồng: Nếu bạn biết mình bị SXH, hãy tránh để bị muỗi đốt thêm trong tuần đầu tiên của bệnh. Vi rút có thể lưu hành trong máu trong thời gian này, do đó bạn có thể truyền vi rút cho những con muỗi mới chưa bị nhiễm, chúng có thể lây nhiễm sang người khác.

Sự gần gũi của các địa điểm sinh sản của véc tơ muỗi với nơi cư trú của con người là một yếu tố nguy cơ đáng kể đối với bệnh SXH. Hiện nay, phương pháp chính để kiểm soát hoặc ngăn chặn sự lây truyền của vi rút SXH là chống lại vật trung gian truyền bệnh là muỗi. Điều này đạt được thông qua các biện pháp như:

Phòng, chống muỗi sinh sản bằng cách ngăn chặn muỗi tiếp cận môi trường đẻ trứng bằng cách quản lý và thay đổi môi trường. Xử lý chất thải rắn đúng cách và loại bỏ các môi trường sống nhân tạo có thể chứa nước. Đậy, đổ và vệ sinh dụng cụ chứa nước sinh hoạt hàng tuần. Áp dụng các loại thuốc diệt côn trùng thích hợp cho các thùng chứa nước ngoài trời.

Bảo vệ cá nhân khỏi bị muỗi đốt bằng cách sử dụng các biện pháp bảo vệ cá nhân trong gia đình, như màn chắn cửa sổ, chất xua đuổi, máy xông hơi. Các biện pháp này phải được tuân thủ vào ban ngày cả trong và ngoài nhà (tại nơi làm việc/trường học) vì các vật trung gian truyền bệnh chính là muỗi đốt suốt cả ngày. Nên mặc quần áo hạn chế tiếp xúc da với muỗi. Kết nối, giáo dục cộng đồng về nguy cơ mắc các bệnh do muỗi truyền. Tham gia với cộng đồng để cải thiện sự tham gia và huy động cộng đồng để kiểm soát véc tơ bền vững.

Giám sát muỗi và vi rút tích cực, cần tiến hành theo dõi và giám sát tích cực sự phong phú của véc tơ và thành phần loài để xác định hiệu quả của các biện pháp can thiệp kiểm soát. Giám sát chủ động tỷ lệ lưu hành vi rút trong quần thể muỗi, với việc chủ động sàng lọc các bộ sưu tập muỗi trọng điểm. Giám sát véc tơ có thể được kết hợp với giám sát lâm sàng và môi trường.

Hiện nhiều nhóm cộng tác quốc tế đang tiến hành nghiên cứu nhằm tìm kiếm các công cụ mới và các chiến lược sáng tạo sẽ góp phần vào các nỗ lực toàn cầu nhằm ngăn chặn sự lây truyền bệnh SXH. Việc lồng ghép các phương pháp tiếp cận quản lý véc tơ được khuyến khích bởi WHO để đạt được các biện pháp can thiệp kiểm soát véc tơ bền vững, hiệu quả tại địa phương.

Tại Tiền Giang tính đến tuần 19 (đến ngày 8--2022), trên địa bàn toàn tỉnh đã có 388 trường hợp mắc SXH. Mặc dù số mắc giảm trên 55% so với cộng dồn cùng kỳ năm 2021 nhưng đã có 2 trường hợp trẻ em tử vong do SXH ở huyện Cái Bè và TX. Cai Lậy. Để phòng, chống SXH hiệu quả, hưởng ứng ngày Asean phòng, chống SXH năm nay, ngoài các giải pháp về chuyên môn của ngành Y tế, sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền các cấp, các ngành. Mỗi người dân cần nâng cao ý thức trách nhiệm, tự nguyện thực hiện các biện pháp phòng bệnh đơn giản ngay tại hộ gia đình hằng tuần nhằm kiểm soát hiệu quả véc tơ lây truyền bệnh, hướng tới một cộng đồng không còn SXH.

BS LÊ ĐĂNG NGẠN

(Cập nhật tài liệu của WHO ngày 17-5-2022)

 

 


 

 

.
.
.