Thứ Năm, 06/04/2023, 17:42 (GMT+7)
.

Thận trọng với những biến chứng khó lường của bệnh thủy đậu

Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm nhưng lành tính, không có triệu chứng nặng nề, tuy nhiên rất dễ gây nhiễm trùng da nơi mọc phỏng nước, có thể dẫn đến biến chứng nhiễm trùng huyết, viêm phổi, viêm não...

Bác sĩ khám cho bệnh nhi mắc thủy đậu.
Bác sĩ khám cho bệnh nhi mắc thủy đậu.

Trẻ sơ sinh khi mắc thủy đậu dễ gặp biến chứng khó lường

Thời điểm từ tháng 2 đến tháng 6 hàng năm thường xuất hiện dịch bệnh thủy đậu (dân gian gọi trái rạ) ở trẻ em. Thời gian gần đây, Bệnh viện Nhi Trung ương tiếp nhận nhiều trẻ bị biến chứng do mắc thủy đậu.

Một trong những trường hợp biến chứng bệnh thủy đậu ở trẻ sơ sinh điển hình mà Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương vừa tiếp nhận gần đây là bé Đ.H (27 ngày tuổi, Bắc Giang).

Sau khi sinh Đ.H 5 ngày, người mẹ bị lây nhiễm thủy đậu từ con gái lớn (7 tuổi) do không có biện pháp cách ly an toàn. Sau đó mẹ lại tiếp tục chủ quan không cách ly với bé Đ.H và lây cho con khi bé được 14 ngày tuổi.

Lúc này da trẻ xuất hiện các tổn thương dạng nốt phỏng ở da đầu, rồi lan ra toàn thân, liên tục có các cơn sốt 38,5 độ C, kèm theo ho nhiều, thở mệt.

Trẻ được chẩn đoán viêm phổi trên bệnh nhân thủy đậu. Sau 4 ngày điều trị ở bệnh viện tuyến tỉnh, tình trạng suy hô hấp của trẻ ngày càng tăng.

Ngày 20/3, Đ.H được chuyển đến Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương.

Ngay sau khi tiếp nhận, các bác sĩ Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương đã thăm khám, thực hiện siêu âm, chụp X-quang phổi, xét nghiệm máu và tiến hành điều trị theo phác đồ bệnh thủy đậu.

Sau 7 ngày, trẻ dần hồi phục, các nốt ban phỏng nước đã khô và đóng vảy, viêm phổi được kiểm soát.

Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Phương Thảo, Trung tâm Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Nhi Trung ương cho biết, trẻ nhỏ, nhất là trẻ sơ sinh khi mắc thủy đậu rất dễ gặp những biến chứng khó lường.

Bệnh thủy đậu (Chickenpox) là bệnh truyền nhiễm lây qua đường hô hấp do virus Varicella Zoster (VZV) gây nên. Thủy đậu xảy ra chủ yếu ở trẻ em, biểu hiện bằng sốt và phát ban dạng nốt phỏng, thường diễn biến lành tính.

Ở người có suy giảm miễn dịch, phụ nữ mang thai và trẻ sơ sinh, thủy đậu có thể tiến triển nặng dẫn đến các biến chứng nội tạng như viêm phổi, viêm cơ tim và có thể dẫn tới tử vong.

Bệnh thủy đậu là bệnh truyền nhiễm nhưng lành tính, không có triệu chứng nặng nề. Tuy nhiên, bệnh rất dễ gây nhiễm trùng da nơi mọc phỏng nước, có thể dẫn đến biến chứng nhiễm trùng huyết, viêm phổi, viêm não.... nếu không được điều trị kịp thời và đúng cách.

Vì vậy, việc cha mẹ nhận biết được biểu hiện bệnh sớm, theo dõi dấu hiệu trở nặng để đưa con đến cơ sở y tế điều trị kịp thời là vô cùng cần thiết.

Chăm sóc đúng cách trẻ mắc thủy đậu

Bác sĩ Thảo cho biết, giai đoạn tiền triệu chứng thường kéo dài 1-2 ngày trước khi xuất hiện ban. Người bệnh mệt mỏi, sốt từ 37,8°-39,4°C.

Ban trên da xuất hiện đầu tiên trên mặt và thân, nhanh chóng lan ra tất cả các vùng khác trên cơ thể.

Ban lúc đầu có dạng dát sẩn, tiến triển đến phỏng nước trong vòng vài giờ đến một vài ngày. Phần lớn các nốt phỏng có kích thước nhỏ 5-10 mm, có vùng viền đỏ xung quanh. Các tổn thương da có dạng tròn hoặc bầu dục; vùng giữa vết phỏng dần trở nên lõm khi quá trình thoái triển của tổn thương bắt đầu.

Các nốt phỏng ban đầu có dịch trong, dạng giọt sương, sau đó dịch trở nên đục; nốt phỏng bị vỡ hoặc thoái triển, đóng vảy; vảy rụng sau 1 đến 2 tuần, để lại một sẹo lõm nông.

Ban xuất hiện từng đợt liên tiếp trong 2-4 ngày; trên mỗi vùng da có thể có mặt tất cả các giai đoạn của ban-dát sẩn, phỏng nước và vảy.

Virus thủy đậu lây truyền qua đường hô hấp. Nguồn lây lớn nhất là người bị thủy đậu. Người bệnh có khả năng lây cho người khác khoảng 48 giờ trước khi xuất hiện ban, trong giai đoạn phát ban (thường kéo dài 4-5 ngày), và cho đến khi ban đóng vảy.

Thủy đậu là bệnh dễ lây truyền, tỷ lệ lây nhiễm lên đến 90% ở những người chưa có miễn dịch. Bệnh thường xuất hiện thành dịch ở trẻ em lứa tuổi đi học.

Bác sĩ Thảo cho biết, cách phòng bệnh tốt nhất là tiêm vaccine. Vaccine thủy đậu là vaccine sống giảm độc lực, được chỉ định cho tất cả trẻ em trên 1 tuổi (cho tới 12 tuổi) chưa mắc thủy đậu và người lớn chưa có kháng thể với Herpes zoster. Vaccine thủy đậu có tính an toàn và hiệu quả cao.

Trẻ em cần được tiêm một liều vaccine và người lớn được tiêm hai liều. Một số trường hợp có thể có thủy đậu sau tiêm phòng. Lưu ý không tiêm vaccine thủy đậu cho trẻ suy giảm miễn dịch nặng (trẻ nhiễm HIV có triệu chứng).

Nếu trong gia đình, trẻ bị mắc thủy đậu, cha mẹ cần lưu ý: Khi trẻ có triệu chứng sốt, phát ban phỏng nước, gia đình nên cách ly con không tiếp xúc với mọi người chung quanh để tránh lây nhiễm. Phòng thông thoáng, sạch sẽ, có ánh nắng mặt trời.

Nếu trẻ sốt trên 38,5 độ C, cho trẻ uống thuốc hạ sốt thành phần paracetamol 10-15mg/kg cách 4-6 giờ/ lần, kết hợp chườm ấm. Lưu ý khi chườm ấm cho trẻ thủy đậu, cần dùng nước ấm tan giá (không quá ấm nóng) để tránh gây vỡ, bỏng rát các phỏng nước trên cơ thể.

Nếu con có các biểu hiện ho nhiều, khó thở, mệt mỏi, li bì cần đưa ngay đến cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám.

Hiện nay, vẫn có nhiều người quan niệm mắc bệnh thủy đậu phải kiêng nước, kiêng gió nên không tắm cho con. Tuy nhiên, đây là quan niệm chưa đúng. Khi trẻ mắc thủy đậu, cha mẹ nên vệ sinh cơ thể, chăm sóc da đúng cách để tránh nhiễm khuẩn khiến tình trạng của trẻ càng nặng hơn.

Bác sĩ Nguyễn Phương Thảo

Gia đình cần lưu ý vệ sinh mắt mũi, răng miệng nhẹ nhàng cho con hàng ngày từ 2-3 lần bằng nước muối 0,9% vì thủy đậu có thể mọc trong miệng, nếu không vệ sinh có thể gây bội nhiễm.

Tắm cho con bằng nước ấm đun sôi để nguội (hạn chế dùng xà phòng tránh gây viêm nhiễm khi xà phòng đọng lại ở các nốt bong tróc).

Cho trẻ vào chậu nước, lấy tay té nước lên người nhẹ nhàng, dùng khăn xô mềm vỗ nhẹ lên các vùng da để làm sạch, không cọ xát mạnh gây vỡ nốt phỏng.

Sau khi tắm xong dùng khăn xô hoặc khăn loại chất coton dễ thấm, thấm nhẹ nhàng toàn thân, mặc quần áo thoáng mát và có thể bôi xanh methylen, để sát khuẩn.

Bổ sung dinh dưỡng đầy đủ cho con, không ăn kiêng, nếu trẻ đau miệng có thể cho trẻ ăn thức ăn mềm, dễ tiêu, uống sữa, ăn cháo. Nếu trẻ đang bú mẹ, vẫn cho con bú bình thường.

(Theo nhandan.vn)

 

 

 

 

.
.
.