Tháng 7 ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn
Nằm giữa đại ngàn, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn (Quảng Trị) là nơi yên nghỉ của hơn 1 vạn người con yêu quý từ mọi tỉnh thành đã ngã xuống trong 16 năm khai mở, giữ vững và phát triển đường mòn Hồ Chí Minh lịch sử. Tên tuổi những người anh hùng này mãi mãi trở thành huyền thoại với tuyến đường 599 (đường Trường Sơn, nay là đường Hồ Chí Minh) - con đường đã góp phần làm nên kỳ tích ngày 30-4-1975 lịch sử. Đây là nơi để “Vạn thuở lưu danh liệt sĩ/Ngàn đời tạc sử Trường Sơn” như lời nói của tướng Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, khi trở lại thăm nghĩa trang.
Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn (thuộc địa phận xã Vĩnh Trường, huyện Gio Linh) nằm trên một ngọn đồi cao ở thượng nguồn sông Bến Hải, bên dưới là một hồ rộng đầy nước xanh trong. Các anh ở BQL nghĩa trang kể lại: Hồi xây dựng nghĩa trang, khi bộ đội đào chỗ đất trũng để đắp đường thì một mạch nước ngầm từ bên dưới phụt lên, liên tục không dứt để phục vụ cho việc xây dựng. Tướng Đồng Sĩ Nguyên, nguyên Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn khi đó đã cho sửa thành cái hồ, tạo gò đảo nhân tạo ở giữa và bắc cầu đi ra. Từ đó đến nay, cái hồ này chưa bao giờ cạn nước cho dù vào những năm đại hạn lúc mà các khe suối, ao hồ xung quanh đều cạn nước.
Thắp nhang tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. |
Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn được khởi công xây dựng vào ngày 24-10-1975, hoàn thành vào ngày 10-4-1977, là nơi tưởng niệm, tôn vinh những người con thân yêu của Tổ quốc đã anh dũng hy sinh trên các nẻo đường Trường Sơn vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bộ Tư lệnh Sư đoàn 559 chỉ huy xây dựng với sự tham gia của hơn 40 đơn vị bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương.
Ngoài ra còn có tổ công nhân chuyên khắc chữ vào bia đá của xã Hòa Hải, huyện Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn là nơi quy tụ 10.333 phần mộ của các liệt sỹ có tổng diện tích 140.000m2; trong đó, diện tích đất mộ là 23.000m2, khu tượng đài 7.000m2, khu trồng cây xanh 60.000m2, khu hồ cảnh 35.000m2 và mạng đường ô tô rải nhựa trong khuôn viên nghĩa trang 15.000m2.
Trong nghĩa trang, các phần mộ được sắp xếp chia thành 10 khu vực theo địa phương, theo nơi sinh của các liệt sĩ và khu dành riêng cho 68 liệt sĩ vô danh. Đến ngày 19-5-1999, Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn đã được nâng cấp, tôn tạo lại. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn hiện có 24 cán bộ, nhân viên thường xuyên chăm lo việc coi sóc, tu bổ và tiếp đón các gia đình liệt sĩ, các đoàn khách trong và ngoài nước đến thăm viếng.
Trung bình mỗi ngày có khoảng 20 đoàn khách, đó là chưa kể những nhóm khách đơn lẻ đến viếng nghĩa trang. Mỗi năm một lần, các nhân viên nghĩa trang cọ sạch rong rêu trên 10.263 bia mộ, thay cát trong 10.263 bát hương của 10.263 liệt sĩ (trong đó khoảng 80% hy sinh ở lứa tuổi 18 đến 22).
Khu trung tâm nghĩa trang nằm ở vị trí cao nhất của ngọn đồi khoảng 32,4m với đài tưởng niệm (đài Tổ quốc ghi công) bằng đá trắng cao vút uy nghiêm, khuyết ba mặt. Ngay phía sau đài tưởng niệm là cây bồ đề với chiều cao tương đương tỏa bóng mát làm gợi lên mối liên hệ giữa mất mát - trường tồn bất diệt cũng như quá khứ - tương lai.
Được biết, cây bồ đề tự mọc chứ không do con người trồng. Sau khi nghĩa trang khánh thành được 6 tháng (tháng 10-1977), cây bồ đề mọc lên ngay vị trí sau đài tưởng niệm và phát triển đến bây giờ. Mộ liệt sĩ trong nghĩa trang được sắp xếp theo từng khu vực của tỉnh, thành phố, trải dài trên 5 ngọn đồi nhỏ nằm liên tiếp trên quả đồi lớn.
Khu mộ liệt sĩ của mỗi tỉnh, thành đều có nhà tưởng niệm riêng với nét kiến trúc đặc trưng của mỗi vùng. Màu trắng của những dãy mộ liên tiếp xen lẫn vào màu xanh của những cánh rừng thông tĩnh lặng cùng làn khói hương bay lãng đãng làm không khí trong nghĩa trang càng trở nên huyền hoặc, tôn nghiêm hơn! Một nhà thơ khi đến viếng nghĩa trang đã so sánh “Những ngôi mộ ngang dọc thẳng hàng/Như đội ngũ trước giờ ra chiến dịch/Vẫn vững bước suốt dải Trường Sơn/Dọc chiều dài đất nước” (*).
Thân nhân liệt sĩ tại Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. |
Ngay phía sau cây bồ đề ở đài tưởng niệm tại trung tâm nghĩa trang là khu mộ liệt sĩ của TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh thành phía Nam, trong đó có Tiền Giang. Sinh ra và lớn lên tại miền Nam sau 1975, tôi thật xúc động và càng thêm tự hào khi bắt gặp những người anh hùng của quê hương Tiền Giang đã “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và hy sinh anh dũng ở đây!
Đó là: Liệt sĩ Võ Huỳnh Long (SN 1938, quê quán Tân Hội - Cai Lậy) nhập ngũ năm 1966, cấp bậc trung úy, hy sinh ngày 20-1-1975; Liệt sĩ Phạm Văn Khéo (SN 1934, quê quán Bình Xuân - Gò Công) nhập ngũ năm 1966, cấp bậc thiếu úy, hy sinh ngày 08-4-1968. Liệt sĩ Nguyễn Văn Xê (SN 1948, quê quán Trung An - Mỹ Tho) nhập ngũ năm 1968, cấp bậc trung sĩ, hy sinh ngày 07-5-1970; Liệt sĩ La Văn Thảo (SN 1933, quê quán Mỹ Thiện - Cái Bè) nhập ngũ năm 1964, cấp bậc thiếu úy, hy sinh ngày 7-11-1969… Những người con thương yêu của tỉnh nhà đã cống hiến tuổi thanh xuân cho cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập của dân tộc đã mãi mãi nằm lại giữa đại ngàn Trường Sơn cùng đồng đội của mình!
Theo Trưởng ban quản lý Nghĩa trang Trường Sơn cho biết: Khu mộ liệt sĩ của TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phía Nam ít có khách từ Nam ra viếng nhưng vẫn được những đoàn khách khác khi đến đều thắp nhang vì mọi người đều thương những người con của miền Nam thân thương nằm lại ở đây! Thật vậy, lúc chúng tôi đến viếng, trên những ngôi mộ của các liệt sĩ ở đây vẫn còn những nét nhang nghi ngút khói.
Hoàng hôn cùng ráng chiều đỏ ói dần buông xuống Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn. Những nén nhang trên các phần mộ trắng xóa của các anh hùng liệt sĩ gặp gió bỗng lóe sáng lên như nhắc đến những người còn sống hãy nhớ đến quá khứ hào hùng, oanh liệt đã qua để xây dựng đất nước tương lai ngày càng giàu đẹp hơn!
Một lần đến viếng mộ liệt sĩ ở Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn làm tôi đồng cảm hơn với tứ thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi: “Đất nước của những người không bao giờ khuất, đêm đêm rì rầm trong tiếng đất, những buổi ngày xưa vọng nói về”. Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn ngày nay đã trở thành biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, nơi suy tôn tinh thần, ý chí đấu tranh giành độc lập và khát vọng hòa bình của nhân dân ta.
PHÙNG LONG
(*) Bài thơ: “Viếng Nghĩa trang Trường Sơn” của Nguyễn Quốc Tuấn