WB ca ngợi nữ chuyên gia virus Việt
Nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, trang web chính thức của Ngân hàng Thế giới (WB) đã có bài phỏng vấn chị Nguyễn Lê Khánh Hằng, “nhà virus học hàng đầu của Việt Nam, người có công trình nghiên cứu đã cung cấp thông tin về các chiến lược quốc gia để quản lý sự bùng phát các bệnh truyền nhiễm”. WB cũng khẳng định nhà khoa học Nguyễn Lê Khánh Hằng nằm trong số những người phụ nữ ở Đông Nam Á có đóng góp quan trọng cho một tương lai công bằng trong thời kỳ thế giới hứng chịu đại dịch COVID-19.
|
||
“Trong suốt hai thập kỷ qua, tôi là thành viên của nhóm chuyên gia cốt lõi của Việt Nam đã nghiên cứu nhiều loại virus rất dễ lây lan. Tôi nhận thấy rằng sự quan tâm của công chúng đối với lĩnh vực dịch tễ học đã tăng lên kể từ khi dịch SARS bùng phát vào năm 2003. Với SARS sau đó và COVID-19 hiện nay, chúng ta đã chứng kiến sự xuất hiện của các mầm bệnh rất dễ lây lan. Lĩnh vực của chúng tôi trở nên quan trọng hơn kể từ khi chúng tôi cung cấp bằng chứng quan trọng để hướng dẫn các quốc gia nỗ lực ngăn chặn, phát hiện và giảm thiểu các mối đe dọa sức khỏe”, chị Nguyễn Lê Khánh Hằng cho biết.
Chị Hằng chia sẻ, sau khi đại dịch COVID-19 bùng phát, dù khối lượng công việc vô cùng lớn nhưng các nhà khoa học hiểu rằng công việc đang trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. “Kể từ khi trường hợp COVID-19 đầu tiên chính thức được phát hiện tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 1 năm 2020, chúng tôi đã chạy đua với thời gian để tìm hiểu về thứ mà lúc đó được mệnh danh là “virus bí ẩn”. Đến tháng 2 năm 2020, Việt Nam trở thành quốc gia thứ 4 trên thế giới phân lập thành công loại SARS-CoV-2 mới từ bệnh phẩm. Hiểu rõ hơn về hành vi của virus và các mối đe dọa tiềm ẩn đã đặt nền tảng vững chắc cho việc phát triển và đánh giá các bộ xét nghiệm chẩn đoán và vaccine sau này”, chị Hằng kể lại.
Chị Hằng cho biết, ngoài nghiên cứu và phân tích, ê kip của chị đã thực hiện rất nhiều khóa đào tạo để nâng cao năng lực kiểm tra trên toàn quốc. Lúc đầu, thời gian quay vòng có thể lên đến 24-48 giờ. Với sự hỗ trợ từ WB, các nhà virus học của Việt Nam đã cung cấp đào tạo về xét nghiệm chẩn đoán cho 600 nhân viên phòng thí nghiệm. Hiện nay, 94 phòng thí nghiệm trên toàn quốc có khả năng thử nghiệm COVID-19. Thời gian quay vòng trung bình đã được cắt giảm đáng kể xuống còn 4 đến 6 giờ.
"Để thành công, bạn cần có mục đích rõ ràng và niềm đam mê mạnh mẽ thúc đẩy bạn tiến về phía trước, đặc biệt nếu bạn chọn xây dựng sự nghiệp trong những lĩnh vực ít được biết đến hơn. Và nhất là, cần phải có sự kiên trì. Cho dù trong môi trường phòng thí nghiệm hay cuộc sống, chúng ta đều phải trải qua vô số thử nghiệm để đạt được kết quả mong muốn. Chỉ cần chúng ta không bỏ cuộc", nhà virus học Nguyễn Lê Khánh Hằng nói với WB. |
“Tôi rất tự hào rằng công trình nền tảng của chúng tôi đã giúp Việt Nam có thể triển khai thử nghiệm rộng rãi tại địa phương. Việt Nam thực hiện nhiều xét nghiệm cho mỗi trường hợp được xác nhận hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới - điều này góp phần vào việc ngăn chặn hiệu quả virus”.
Đại dịch thay đổi cuộc sống của nhân viên y tế
Về thách thức đại dịch COVID-19 tạo ra mà các chuyên gia y tế phải vượt qua, chị Hằng cho rằng COVID-19 đã đặt các nhân viên y tế, nhất là những người làm việc ở tuyến đầu, chịu áp lực chưa từng có. Không chỉ khối lượng công việc tăng lên rất nhiều mà mức độ rủi ro cũng tăng theo. Việc cách ly bắt buộc do làm việc chặt chẽ với bệnh nhân COVID-19 đồng nghĩa với việc xa cách những người thân yêu một thời gian dài. Điều này gây ra sự gián đoạn rất lớn đối với những lao động nữ, những người có lịch trình làm việc cực kỳ bận rộn bởi họ còn đảm nhận vai trò chính trong chăm sóc gia đình.
Chia sẻ về kế hoạch cho tương lai, nhà virus học Nguyễn Lê Khánh Hằng cho biết: “Hy vọng của tôi là sẽ thấy nhiều tiến bộ hơn trong lĩnh vực dịch tễ học và y tế dự phòng ở Việt Nam. Chúng tôi mong muốn có nhiều nghiên cứu khoa học của mình được xuất bản trên các tạp chí hàng đầu và thực hiện các nghiên cứu trong phạm vi khu vực và quốc tế. Chia sẻ kiến thức và hợp tác quốc tế là vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết để chống lại các bệnh truyền nhiễm trong một thế giới kết nối cao.
"Trong 15 năm qua, chúng tôi đã có được những kinh nghiệm to lớn từ việc đối phó với các đại dịch khác nhau như SARS-2003 và bây giờ là COVID-19. Nhưng chúng ta phải tăng cường năng lực của mình nhiều hơn nữa một cách có hệ thống. Nó sẽ đòi hỏi đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng vật chất và nguồn nhân lực. Tôi vui mừng khi thấy ngoài ngân sách Nhà nước, khu vực tư nhân đã quan tâm hơn đến việc tài trợ cho nghiên cứu và phát triển các sản phẩm an toàn sinh học.
"Chúng tôi mong muốn thúc đẩy quan hệ đối tác với khu vực tư nhân cũng như các tổ chức nghiên cứu quốc tế để hiểu rõ hơn về thế giới virus và có chuẩn bị tốt hơn nhằm chống lại các đợt bùng phát trong tương lai”
.(Theo chinhphu.vn)