Hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng của việc tăng giá điện
Ngày 4/5, Bộ Công thương ban hành Quyết định số 1062/QĐ-BCT quy định về giá bán điện, theo đó giá bán lẻ điện bình quân là 1.920,3732 đồng/kW giờ (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng) từ ngày 4/5/2023. Trước đó, căn cứ cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân và Văn bản số 304/BCT-ĐTĐL ngày 27/4/2023 của Bộ Công thương, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã có quyết định điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân tăng tương đương 3% so với giá điện bán lẻ bình quân hiện hành.
Buổi họp báo trao đổi thông tin về việc điều chỉnh giá bán lẻ điện chiều 4/5. |
Điện là mặt hàng đặc thù và rất quan trọng đối với nền kinh tế cũng như sinh hoạt của nhân dân, do đó, thông tin về việc điều chỉnh giá điện đã được toàn xã hội hết sức quan tâm. Việc tăng giá điện trong bối cảnh tình hình kinh tế nhiều khó khăn như hiện nay, đòi hỏi Bộ Công thương, EVN phải nỗ lực thực hiện các giải pháp đồng bộ để giảm thiểu tác động của việc tăng giá điện, bảo đảm cung ứng điện ổn định, an toàn và liên tục, phục vụ sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội.
Tác động ở mức tối thiểu
Theo tính toán, với việc tăng giá bán lẻ điện bình quân lần này, tiền điện tăng thêm của hộ tiêu thụ 50kW giờ/tháng là 2.500 đồng/hộ (năm 2022, có 3,33 triệu hộ sử dụng điện tới 50kW giờ/tháng, chiếm 11,98% tổng số hộ sử dụng điện sinh hoạt); tiền điện tăng thêm của hộ tiêu thụ tới 100kW giờ/tháng là 5.100 đồng/hộ (năm 2022, có 4,7 triệu hộ sử dụng điện từ 51 đến 100kW giờ/tháng, chiếm 16,85%); tiền điện tăng thêm của hộ tiêu thụ tới 200kW giờ/tháng là 11.100 đồng/hộ (có hơn 10,04 triệu hộ, chiếm tỷ trọng lớn nhất-hơn 36%); tiền điện tăng thêm của hộ tiêu thụ tới 300kW giờ/tháng là 18.700 đồng/hộ (có 4,96 triệu hộ, chiếm 17,81%); tiền điện tăng thêm của hộ tiêu thụ tới 400kW giờ/tháng là 27.200 đồng/hộ (2,21 triệu hộ, chiếm 7,95%).
Trong cơ cấu khách hàng sử dụng điện, có khoảng 528.000 khách hàng kinh doanh dịch vụ, bình quân mỗi khách hàng trả tiền điện 5,3 triệu đồng/tháng. Sau khi thay đổi giá điện, mỗi hộ sẽ trả thêm 141.000 đồng/tháng. Với 1,822 triệu hộ sản xuất, bình quân mỗi hộ này trả 10,6 triệu đồng/tháng; sau khi thay đổi giá, mỗi hộ trả thêm 307.000 đồng/tháng. Có 662.000 khách hàng hành chính sự nghiệp, bình quân mỗi khách hàng này trả tiền điện 2,01 triệu đồng/tháng; sau khi thay đổi giá, mỗi hộ này sẽ trả thêm 40.000 đồng/tháng.
Theo Phó Tổng Giám đốc EVN Võ Quang Lâm, do biến động trên thế giới và các yếu tố cung-cầu thị trường, giá các loại nhiên liệu cung ứng cho sản xuất điện như than, xăng dầu, khí đều tăng rất cao, khiến giá điện ở nhiều nước tăng khá cao.
Chi phí nhiên liệu nước ta phải nhập khẩu để sản xuất điện cũng tăng theo, làm chi phí phát điện tăng. Giá đầu vào cho sản xuất điện, tỷ giá tăng là một trong những nguyên nhân cơ bản, khách quan tác động vào chi phí sản xuất điện.
Trong quá trình triển khai, EVN chia sẻ với khó khăn của doanh nghiệp, người dân để giảm đến mức thấp nhất tác động lên sản xuất, kinh doanh và đời sống; việc giá bán lẻ điện bình quân tăng 3%, tác động lĩnh vực sản xuất sắt thép tăng thêm 0,18% giá thành; xi-măng 0,45%...; đây là mức tác động thấp tới nhóm các khách hàng sản xuất cũng như sinh hoạt.
"Giá điện đã được Chính phủ, các bộ, ngành và EVN cố gắng giữ nguyên trong 4 năm qua. EVN cũng thực hiện 5 đợt hỗ trợ giảm tiền điện cho các khách hàng sử dụng điện từ đại dịch Covid-19 khoảng 15.234 tỷ đồng. Với chi phí sản xuất, kinh doanh điện tăng, giá bán điện bình quân hiện hành giữ nguyên từ năm 2019 đến nay khiến giá không bù đắp được chi phí, dẫn đến ngành điện gặp rất nhiều khó khăn, bị lỗ hàng chục nghìn tỷ đồng mỗi năm vì không được tính đúng, tính đủ các chi phí đầu vào.
Năm 2023, EVN ước tính có thể lỗ khoảng 64 nghìn tỷ đồng. Ngày 31/3/2023, Bộ Công thương công bố kết quả kiểm tra chi phí sản xuất, kinh doanh điện năm 2021 và 2022 của EVN, kết quả cho thấy, giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2022 là 2.032,26 đồng/kW giờ, tăng 9,27% so với năm 2021", ông Võ Quang Lâm khẳng định.
Ngày 3/2/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 02/2023/QĐ-TTg về khung giá mức giá bán lẻ điện bình quân, theo đó mức giá bán lẻ điện bình quân tối thiểu (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng) là 1.826,22 đồng/kW giờ, mức giá bán lẻ điện bình quân tối đa là 2.444,09 đồng/kW giờ.
Phó Tổng Giám đốc EVN Nguyễn Xuân Nam cho biết, với mức tăng 3%, ước tính doanh thu 8 tháng còn lại năm 2023 của EVN sẽ tăng thêm khoảng 8.000 tỷ đồng, góp phần giảm thiểu khó khăn tài chính. Trong kịch bản đề ra, nếu giá điện tăng 5% sẽ làm tăng 0,17% CPI; thực tế, mức tăng 3% sẽ tác động tới CPI không đáng kể.
Trong bối cảnh biến động giá nhiên liệu trên thế giới có tần suất và biên độ ngày càng lớn theo chiều hướng gia tăng, theo định hướng chung của Đảng và Chính phủ, EVN cần tiếp tục thực hiện tiết kiệm, có các biện pháp hiệu quả tiết giảm chi phí, tăng doanh thu để bảo đảm khả năng cân đối tài chính năm 2023, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước. Trong những năm qua, EVN đã đẩy mạnh thực hiện tuyên truyền tiết kiệm điện, thực hiện triệt để các giải pháp sử dụng điện tiết kiệm.
Năm 2022, EVN đã tiết kiệm 10% các chi phí thường xuyên, cắt giảm 20-30% chi phí sửa chữa lớn… nhờ đó đã tiết giảm chi phí hơn 9.700 tỷ đồng; thực hiện các giải pháp tối ưu hóa dòng tiền, đạt hơn 7.900 tỷ đồng; vận hành tối ưu hệ thống điện, phát huy tối đa các nhà máy điện có chi phí thấp, giúp giảm chi phí mua điện gần 15.845 tỷ đồng… Tổng các khoản EVN đã triển khai thực hiện để tiết giảm chi phí là 33.445 tỷ đồng.
Thực hiện chỉ đạo của Thường trực Chính phủ và các bộ, ngành, để điều hành giá điện có lộ trình, xem xét việc giá điện tác động đến GDP, CPI, sản xuất và đời sống nhân dân trong nước ở mức thấp nhất, quyết định điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân ở mức 1.920,3732 đồng/kW giờ (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng) từ ngày 4/5 của EVN là mức thấp hơn nhiều so kịch bản tăng giá được EVN xây dựng và trình Bộ Công thương xem xét trước đó.
Chính phủ, Bộ Công thương đã chỉ đạo EVN tiếp tục nghiên cứu, xem xét các giải pháp khác để tối ưu hóa chi phí, giảm chi phí đầu vào, bao gồm: rà soát, thực hiện việc áp dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong hoạt động sản xuất, kinh doanh điện, tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu và thực hiện chương trình tiết kiệm điện, nghiên cứu việc đàm phán với các nhà đầu tư, nhà cung cấp, hộ bán điện trên tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ.
Để cung cấp điện an toàn, ổn định trong năm 2023, Bộ Công thương đã chỉ đạo EVN bám sát và cập nhật liên tục diễn biến thực tế của phụ tải điện, các điều kiện vận hành hệ thống điện và thị trường điện, bảo đảm vận hành và cung cấp điện an toàn, ổn định và tin cậy cho hệ thống điện quốc gia trong năm 2023; đồng thời, phối hợp chặt chẽ các khách hàng sử dụng điện lớn chuẩn bị kịch bản, kế hoạch thực hiện chương trình điều chỉnh phụ tải điện trong trường hợp cần thiết nhằm bảo đảm an ninh hệ thống điện; quản lý, bảo dưỡng các tổ máy phát điện vận hành an toàn, ổn định.
Ngoài ra, Bộ Công thương yêu cầu các đơn vị liên quan xây dựng các phương án vận hành an toàn hệ thống lưới điện, nhất là hệ thống truyền tải điện 500kV bắc-nam; bố trí lịch sửa chữa nguồn điện phù hợp, sử dụng tiết kiệm nguồn nước thủy điện, nâng cao tính khả dụng các nguồn điện, nhất là vào cao điểm mùa khô ở miền bắc; chỉ đạo các đơn vị điện lực sắp xếp kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa hợp lý, rút ngắn thời gian bảo dưỡng, tránh sửa chữa các nguồn điện trong thời gian cao điểm nắng nóng.
Bộ cũng chỉ đạo ngành than, dầu khí bảo đảm cung ứng đủ than, khí cho sản xuất điện; yêu cầu chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện thường xuyên rà soát, tính toán nhu cầu sử dụng nhiên liệu sơ cấp cho sản xuất điện để xây dựng kế hoạch bảo đảm cung cấp đủ, ổn định cho hoạt động của nhà máy điện; định kỳ kiểm tra, củng cố các thiết bị, khắc phục các khiếm khuyết để nâng cao độ tin cậy vận hành, khả năng phát điện các tổ máy phát điện…
Theo Quyết định 1062/QĐ-BCT của Bộ Công thương, giá bán lẻ điện cho sinh hoạt gồm: Bậc 1 (cho kW giờ từ 0 đến 50) là 1.728 đồng/kW giờ; Bậc 2 (cho kW giờ từ 51 đến 100) là 1.786 đồng/kW giờ; Bậc 3 (cho kW giờ từ 101 đến 200) 2.074 đồng/kW giờ; Bậc 4 (cho kW giờ từ 201 đến 300) 2.612 đồng/kW giờ; Bậc 5 (cho kW giờ từ 301 đến 400) 2.919 đồng/kW giờ; Bậc 6 (cho kW giờ từ 401 trở lên) 3.015 đồng/kW giờ. |
(Theo nhandan.vn)