Thứ Năm, 21/12/2023, 12:15 (GMT+7)
.

Tiền Giang: Nỗ lực kéo giảm tình trạng thừa nam, thiếu nữ

Cùng với cả nước, Tiền Giang đang phải đối mặt với vấn đề lớn về cơ cấu dân số, đó là tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh (MCBGTKS). Tình trạng này về lâu dài có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và ảnh hưởng tới cuộc sống của phụ nữ, nam giới và cộng đồng.

NHIỀU HỆ LỤY

Cán bộ truyền thông của Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Tiền Giang chia sẻ về tình trạng MCBGTKS trong công nhân, lao động.
Cán bộ truyền thông của Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Tiền Giang chia sẻ về tình trạng MCBGTKS trong công nhân, lao động.

Tỷ số giới tính khi sinh (TSGTKS) là số bé trai được sinh (đẻ) ra sống trên 100 bé gái được sinh ra sống trong một khoảng thời gian và một địa bàn nhất định. TSGTKS bình thường dao động ở mức 103 - 106 bé trai/100 bé gái. MCBGTKS xảy ra khi số bé trai/100 bé gái lớn hơn 107.

Tại Việt Nam, MCBGTKS bắt đầu tăng từ năm 1979 và tăng nhanh từ năm 2006. Kết quả điều tra năm 2011 cho thấy, có sự khác biệt về MCBGTKS chia theo các vùng kinh tế - xã hội. Đồng bằng sông Hồng là vùng MCBGTKS cao nhất (122,4 bé trai/100 bé gái), kế đến là Đồng bằng sông Cửu Long (114,9 bé trai/100 bé gái).

Sự gia tăng bất thường về TSGTKS của Việt Nam trong những năm gần đây đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lập chính sách, các cơ quan thông tin đại chúng cũng như các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

Gia tăng TSGTKS dẫn đến các hệ lụy khó lường về mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh trật tự. Dư thừa nam giới, thiếu phụ nữ trong độ tuổi kết hôn dẫn đến tan vỡ cấu trúc gia đình truyền thống; số lượng và tỷ lệ nam giới không có khả năng kết hôn tăng; khả năng “nhập khẩu cô dâu” khó khả thi. Gia tăng bất bình đẳng giới, phụ nữ kết hôn sớm, tỷ lệ ly hôn, tái hôn cao và bạo hành giới.

Số phụ nữ Việt Nam lấy chồng người nước ngoài, trong đó có Trung Quốc, Hàn Quốc… ngày càng tăng. Phụ nữ lấy chồng người nước ngoài và đến sinh sống tại nơi mà họ không biết về văn hóa, phong tục, tập quán, lối sống, ngôn ngữ… đã đặt họ trước những nguy cơ cao về cô lập, bạo lực và lạm dụng.

Tình trạng dư thừa nam giới trong độ tuổi kết hôn có thể dẫn tới tan vỡ cấu trúc gia đình, một bộ phận nam giới sẽ phải kết hôn muộn và nhiều người trong số họ không thể tìm được bạn đời. Một giải pháp tình thế được một số nước đang áp dụng, đó là kết hôn với người nước ngoài (còn gọi là “nhập khẩu cô dâu”), nhưng xem ra khó bền vững.

Việc gia tăng TSGTKS không những không cải thiện được vị thế của người phụ nữ, mà thậm chí còn làm gia tăng sự bất bình đẳng giới, như: Nhiều phụ nữ phải kết hôn sớm hơn, tỷ lệ ly hôn và tái hôn của phụ nữ sẽ tăng cao, tình trạng bạo hành giới, mua dâm, buôn bán phụ nữ sẽ gia tăng…

Vì thế, TSGTKS được coi là một trong những chỉ báo quan trọng để đánh giá mức độ bình đẳng giới. Dự báo vào năm 2050, sự chênh lệch giữa nam và nữ ở Việt Nam là khoảng từ 2,3 - 4,3 triệu người. Nếu không có sự can thiệp tích cực nhằm giảm tốc độ gia tăng MCBGTKS thì TSGTKS ở nước ta có thể tiếp tục tăng và duy trì ở mức cao cho đến năm 2050.

THÁCH THỨC TỪ THỰC TẾ

Mặc dù từ lâu xã hội đã coi trọng vai trò người phụ nữ và bình đẳng nam nữ, nhưng tư tưởng trọng nam, khinh nữ từ bao đời nay vẫn còn tồn tại trong một bộ phận dân cư.

Cán bộ truyền thông của Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Tiền Giang chia sẻ về tình trạng MCBGTKS trong công nhân, lao động.
Cán bộ truyền thông của Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Tiền Giang chia sẻ về tình trạng MCBGTKS trong công nhân, lao động.

Truyền thống của người Việt Nam coi con trai là chỗ dựa tốt hơn về mặt tài chính cho cha mẹ khi về già, là người nối dõi tông đường, duy trì huyết thống gia đình, dòng tộc và có vai trò trong các nghi thức thờ cúng tổ tiên.

Trong hoạt động sản xuất, con trai rất cần cho các công việc lao động nặng nhọc... hính vì vậy, gia đình nào cũng mong muốn sinh cho được con trai. Sự bất bình đẳng giới vẫn còn đang diễn ra từ gia đình đến cộng đồng và được coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng MCBGTKS.

Song song đó, luật pháp nghiêm cấm mọi hình thức lựa chọn giới tính thai nhi, nhưng nhiều người vẫn muốn và quyết tâm có con trai. Với sự tiến bộ của y học hiện nay, vấn đề sinh con trai hay con gái không còn quá khó khăn như trước đây. Ngay từ khi chưa mang thai, không ít cặp vợ chồng đã tìm đến bác sĩ nhờ tư vấn “làm cách nào, ăn uống ra sao để sinh được con trai...”.

Với kỹ thuật siêu âm hiện đại, giới tính thai nhi được phát hiện rất sớm. Qua đó cho thấy, trong số hàng ngàn ca nạo, phá thai trong toàn tỉnh Tiền Giang hằng năm, dù không ai thừa nhận vì lý do lựa chọn giới tính nhưng điều đó hoàn toàn có thể xảy ra.

Xét về yếu tố pháp lý, chính sách dân số có 1 - 2 con đã giải quyết tốt vấn đề về quy mô dân số, nhưng trong điều kiện phong tục, tập quán trọng nam hơn nữ, đã tạo sức ép lớn đến vấn đề lựa chọn giới tính thai nhi (lựa chọn thai nhi nam).

Việc cho phép nạo, phá thai một mặt tạo hành lang pháp lý giúp các cặp vợ chồng phá thai nhằm tránh sinh con ngoài ý muốn, mặt khác tạo cơ hội để các cặp vợ chồng lợi dụng thực hiện lựa chọn giới tính thai nhi bằng cách loại bỏ thai nhi nữ. Trong khi đó, nội dung nghiêm cấm lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức nêu trong Pháp lệnh Dân số năm 2003 có lúc, có nơi chưa được người dân chấp hành đúng.

GIẢI PHÁP CAN THIỆP

Việt Nam có quyết tâm can thiệp để làm giảm tình trạng MCBGTKS, thể hiện trong Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 đã đặt mục tiêu TSGTKS không vượt quá 113 bé trai/100 bé gái vào năm 2015 và 115 bé trai/100 bé gái vào năm 2020. Chủ động kiểm soát và giải quyết các nguyên nhân sâu xa làm MCBGTKS; xử lý nghiêm các thực hành lựa chọn giới tính thai nhi.

Tăng cường công tác bình đẳng giới, nâng cao vị thế của phụ nữ và trẻ em gái là một trong các giải pháp then chốt giúp giải quyết vấn đề MCBGTKS. Nghiêm cấm các hành vi lựa chọn giới tính thai nhi, như: Nghiêm cấm tuyên truyền, phổ biến phương pháp chọn lọc giới tính thai nhi dưới các hình thức; nghiêm cấm chẩn đoán giới tính thai nhi; nghiêm cấm loại bỏ thai nhi vì lý do lựa chọn giới tính… đã được quy định rõ ràng: Việc lựa chọn giới tính thai nhi và nạo, phá thai vì mục đích lựa chọn giới tính là bất hợp pháp.

Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi là vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế. Các giải pháp, hoạt động và nhiều văn bản chỉ đạo, điều hành nhằm giảm thiểu MCBGTKS đã được ban hành, triển khai thực hiện.

Trước đây TSGTKS của Tiền Giang thấp hơn TSGTKS của cả nước (trừ năm 2009). TSGTKS của Tiền Giang tăng liên tục 4 năm, từ năm 2010 đến năm 2013; sau vài năm can thiệp, giai đoạn 2014 - 2016, TSGTKS của tỉnh có xu hướng không tăng.

Tuy nhiên, để TSGTKS giảm trong những năm tiếp theo, cần có thời gian; đồng thời, phải tiếp tục tuyên truyền, can thiệp để làm giảm MCBGTKS. Từ thực tế đó, vào tháng 11-2016, UBND tỉnh Tiền Giang phê duyệt Kế hoạch thực hiện Đề án Kiểm soát MCBGTKS giai đoạn 2016 - 2025 (gọi tắt là Đề án) trên địa bàn tỉnh.

Thực hiện Kế hoạch này, ngành Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) tỉnh đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp nhằm khống chế có hiệu quả tốc độ gia tăng TSGTKS trở lại mức cân bằng tự nhiên. Với Đề án này, tỉnh quyết tâm kéo giảm tốc độ gia tăng TSGTKS, tạo cơ sở thuận lợi để đưa tỷ số này đạt dưới mức 115 bé trai/100 bé gái vào năm 2020, đạt 107 bé trai/100 bé gái sau năm 2025 và đưa TSGTKS về mức cân bằng tự nhiên.

Sau 7 năm thực hiện Đề án, các cấp, các ngành có liên quan đã nỗ lực thực hiện các giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng MCBGTKS. Với nỗ lực đó, TSGTKS hằng năm của Tiền Giang đang được kềm chế và từng bước kéo giảm.

Số liệu từ Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh Tiền Giang, năm 2021, TSGTKS của tỉnh là 107,83 bé trai/100 bé gái; năm 2022 là 108,94 bé trai/100 bé gái, và tỷ số này của năm 2023 là 108,04 bé trai/100 bé gái tức có giảm thấp hơn so với năm trước nhưng vẫn còn ở mức cao và kết quả giảm thiểu MCBGTKS của tỉnh chưa mang tính bền vững. Do đó, để kéo giảm tình trạng thừa nam, thiếu nữ vẫn cần sự cộng đồng trách nhiệm của cả cộng đồng.

MAI HÀ

.
.
.