Thứ Hai, 01/01/2024, 14:51 (GMT+7)
.

Chỉ số xếp hạng về bình đẳng giới của Việt Nam tăng 11 bậc

(ABO) Sáng ngày 26-12, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai nhiệm vụ lao động, người có công và xã hội năm 2024. Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà dự hội nghị.

Tại điểm cầu Tiền Giang, hội nghị do đồng chí Nguyễn Thành Diệu, Tỉnh ủy viên, Phó Chủ tịch UBND tỉnh và đồng chí Lý Văn Cẩm, Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở LĐ-TB&XH chủ trì với sự tham dự của lãnh đạo các sở, ngành tỉnh, cùng lãnh đạo các phòng trực thuộc Sở LĐ-TB&XH và Phòng LĐ-TB&XH cấp huyện.

Quang cảnh hội nghị tại điểm cầu Tiền Giang
Quang cảnh hội nghị tại điểm cầu Tiền Giang.

Khai mạc hội nghị, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Đào Ngọc Dung nhận định, năm 2023 là năm giữa nhiệm kỳ, năm bản lề, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, tạo động lực cho các năm tiếp theo để thực hiện thành công các mục tiêu đã đề ra.

Dưới sự Lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội, sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; với quyết tâm của cán bộ, công chức, người lao động toàn ngành LĐ-TB&XH và sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương, Bộ LĐ-TB&XH đã tổ chức thực hiện đồng bộ, linh hoạt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực lao động, người có công và xã hội.

Trong năm 2023, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp phục hồi và phát triển thị trường lao động đã mang lại những kết quả tích cực, giúp các khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm cơ bản duy trì được lực lượng lao động ổn định. Tình trạng hàng trăm ngàn lao động bị buộc nghỉ giãn việc, thôi việc, mất việc ở các doanh nghiệp diễn ra từ quý IV năm 2022 đã giảm nhiệt trong các tháng cuối năm 2023. Các chỉ số về lực lượng lao động, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lao động qua đào tạo, lao động có việc làm, thu nhập của người lao động cơ bản ổn định.

Ước thực hiện năm 2023, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 68%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ đạt 27% - 27,5%; tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị khoảng 2,76%, đạt mục tiêu. Các giải pháp ổn định và phát triển thị trường lao động ngoài nước được đẩy mạnh; công tác tuyển chọn, đào tạo và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng được quản lý chặt chẽ hơn. Ước thực hiện cả năm số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng khoảng 155.000 người, đạt 129% so với kế hoạch năm, tăng 8,55% so với năm 2022, đạt mức cao nhất từ trước đến nay.

Công tác phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực. Ước thực hiện cả năm, tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia BHXH khoảng 39,25%; tỷ lệ lao động trong độ tuổi tham gia bảo hiểm thất nghiệp khoảng trên 31,58%, đạt và vượt các mục tiêu đề ra. Tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách bảo hiểm thất nghiệp, tính đến đến ngày 30-11-2023, tổng số người nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp là 1.034.889 người, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2022, số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 955.058 người, tăng 9,5%.

 

Quang cảnh hội nghị tại điểm cầu Tiền Giang
Quang cảnh hội nghị tại điểm cầu Tiền Giang.

Tiếp tục đổi mới, phát triển giáo dục nghề nghiệp, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tuyển sinh học nghề năm 2023 ước đạt 2.295.000 người, đạt mục tiêu; trong đó, trình độ cao đẳng, trung cấp là 530.000 người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác là 1.765.000 người. Tốt nghiệp năm 2023 ước đạt 2.043.000 người, đạt mục tiêu; trong đó, trình độ cao đẳng, trung cấp là 346.000 người; trình độ sơ cấp và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác là 1.697.000 người.

Công tác chăm sóc người có công với cách mạng, đời sống người có công tiếp tục được nâng cao hơn. Tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời chính sách trợ cấp thường xuyên cho 1.138.816 đối tượng với kinh phí thực hiện cả năm khoảng 29.000 tỷ đồng; trợ cấp 1 lần cho 2.332 người với tổng kinh phí 100 tỷ đồng. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, huy động nguồn lực xã hội chăm lo đời sống người có công với cách mạng được đẩy mạnh. Đời sống người có công và thân nhân người có công tiếp tục được cải thiện, nâng cao hơn.

Bên cạnh đó, công tác trợ giúp xã hội; nghiên cứu, mở rộng đối tượng thụ hưởng và nâng mức trợ cấp xã hội cũng được nâng cao hiệu quả. Cụ thể, chi trả trợ cấp thường xuyên hằng tháng cho 3,356 triệu đối tượng bảo trợ xã hội với kinh phí trên 27 ngàn tỷ đồng; có 14 tỉnh, thành phố chủ động nâng mức chuẩn trợ cấp cao hơn mức quy định cho khoảng 700.000 đối tượng với kinh phí 3.514 tỷ đồng.

Ngoài ra, các chính sách, chương trình giảm nghèo được thực hiện khá toàn diện và tương đối đầy đủ, đời sống của hộ nghèo từng bước được cải thiện, nâng cao. An sinh xã hội luôn được đảm bảo. Ước tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều năm 2023 còn 2,93%, (giảm 1,1% so với cuối năm 2022).

Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được đẩy mạnh; bình đẳng giới tiếp tục nhận được sự quan tâm. Chỉ số xếp hạng về bình đẳng giới của Việt Nam năm 2023 là 72/146 quốc gia, tăng 11 bậc so với năm 2022... Ngoài ra, các lĩnh vực khác đều được quan tâm chỉ đạo thực hiện, đạt kết quả tốt.

Tại Tiền Giang, năm 2023 công tác lao động, người có công và xã hội được thực hiện tốt, hoàn thành đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra. Trong đó, giải quyết việc làm cho khoảng 16.000 lao động. Về chỉ tiêu đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, có 508 người xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài, đạt 169% kế hoạch năm, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2022; tỷ lệ thất nghiệp chung 1,5%, tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị 2,9%; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 54%.

Tiền Giang là tỉnh thực hiện tốt công tác người có công, đảm bảo mức sống người có công ngang bằng và cao hơn mức sống trung bình của khu dân cư. Công tác giảm nghèo bền vững, kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo đến cuối năm 2023, toàn tỉnh còn 4.925 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 0,97% (giảm 1.508 hộ nghèo, tương đương giảm tỷ lệ là 0,3%) đạt kế hoạch đề ra và 8.677 hộ cận nghèo, chiếm tỷ lệ 1,71%...

THỦY HÀ

 

 

.
.
.