Những người "giữ lửa" nghề rèn
Tự bao giờ, “Lò rèn Ông Văn” (xã Đăng Hưng Phước, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang) là cái tên thân thuộc của người dân mỗi khi nhắc đến nghề rèn. Bên bếp than đỏ rực, những tiếng mài, đập, gõ liên tục dưới bàn tay tỉ mỉ, kì công của người thợ rèn vẫn hằng ngày miệt mài làm việc, lưu giữ một nghề truyền thống - nét đẹp văn hóa ở địa phương.
![]() |
Ông Tám Hòa đang thực hiện các thao tác để làm ra một chiếc liềm. |
Chúng tôi có dịp đến thăm lò rèn của ông Nguyễn Văn Hòa (còn gọi là Tám Hòa, sinh năm 1962, ấp Bình Phú Quới, xã Đăng Hưng Phước). Từ sáng sớm, lò rèn của ông Tám Hòa đã đỏ lửa, từng động tác nung thép, đập búa tạo hình chiếc liềm, dao… được ông và những người thợ thực hiện một cách thuần thục.
Tranh thủ lúc nghỉ tay, ông Tám Hòa cho biết: “Nghề rèn này là nghề truyền thống của dòng họ tôi. Tôi là đời thứ 4 trong gia đình được truyền lại nghề rèn này. Từ nhỏ, tôi theo cha ra lò rèn để quan sát, học nghề rồi tập làm từ từ cho đến khi thành thạo và tiếp tục duy trì nghề rèn này cho đến nay”.
Đến nay đã hơn 40 năm gắn bó với nghề rèn, đó cũng là khoảng thời gian ông Tám Hòa quen với sức nóng phừng phực từ lò lửa đỏ, tiếng đục, tiếng mài cùng với mùi khói, bụi của lò rèn. Am hiểu sâu sắc về nghề, ông Tám Hòa chia sẻ: “Để cho ra thành phẩm từ thanh thép thô, người thợ rèn phải trải qua nhiều công đoạn, đòi hỏi phải có sự tỉ mỉ, kiên nhẫn của người thợ. Thép sau khi dùng búa đập cho nhẵn ra được đưa vào lửa nung đến khi đỏ rực. Tiếp đến, người thợ dùng búa đập nhiều lần tạo hình và mài thủ công từng chi tiết đến khi cho ra thành phẩm.
Trong các khâu để làm ra sản phẩm thì khâu nào cũng quan trọng, nhưng quan trọng nhất là người thợ phải nhận biết được “độ hồng” của sắt, thép trên ngọn lửa, biết vừa hay chưa và “nước tôi” tức là cho sản phẩm qua lửa lần cuối rồi nhúng vào nước lạnh; vì “nước tôi” già hay non sẽ ảnh hưởng đến độ sắc của dụng cụ. Sau khi nhúng xong, người thợ mang đi mài, cắt chấu, gắn cán để hoàn chỉnh sản phẩm”.
Trung bình mỗi ngày, lò rèn của ông Tám Hòa rèn khoảng từ 50 - 60 liềm, dao… với giá từ 35 - 50 ngàn đồng/chiếc, tùy loại để bán người dân. Không những thế, các sản phẩm nông cụ làm ra còn được bán cho các thương lái ngoài tỉnh như: Long An, Bến Tre, Vĩnh Long… với số lượng lớn.
Dù giá cả ở mức trung bình, làm nghề vất vả nhưng cũng nhờ nghề rèn mà gia đình ông và những người thợ rèn có cuộc sống ổn định. Đồng thời, lò rèn còn nhận sửa chữa các nông cụ đã cùn, mòn để cắt chấu, trui cho sắc lại.
Chính vì thế, lò rèn lúc nào cũng đông khách, có khách thì đợi cắt chấu chiếc liềm, trui chiếc dao cho bén lại; còn có khách thì muốn tận mắt thấy các công đoạn làm ra chiếc liềm, chiếc dao để mang về sử dụng, qua đó cũng tạo nên sự gắn kết giữa người thợ và người dân địa phương.
Là khách hàng quen thuộc của lò rèn, chị Nguyễn Thị Hoa (ấp Điền Mỹ, xã Long Bình Điền, huyện Chợ Gạo) chia sẻ: “Nhà tôi trồng thanh long nên thường mua liềm, dao mác tại lò rèn. Vì các loại nông cụ làm tại lò rèn đều được làm thủ công, rất sắc bén và bền bỉ chắc chắn mang lại giá trị sử dụng rất cao. Tại đây, các thợ rèn còn nhận làm các loại nông cụ theo ý muốn của khách hàng và nhận sửa chữa, trui liềm, dao khi đã cùn, mòn. Vì thế, khi bà con mua dao, liềm… thì thường đến lò rèn để trực tiếp mua, đặt mua”.
Anh Nguyễn Trí Hiệp là con trai của ông Tám Hòa, đã nối nghiệp cha làm nghề được hơn 10 năm. Anh Hiệp chia sẻ: “Nghề rèn không chỉ là một nghề để mưu sinh, mà còn mang nét văn hóa truyền thống của gia đình, dòng họ và địa phương nên tôi sẽ tiếp tục duy trì nghề rèn này để gìn giữ những giá trị văn hóa đặc trưng mà thế hệ trước đã truyền lại”.
Hiện tại, xã Đăng Hưng Phước có 3 lò rèn được duy trì hoạt động, được lưu giữ bởi tâm huyết của những người thợ rèn yêu nghề. Các lo rèn này đang từng ngày góp phần gìn giữ nghề rèn nơi đây không bị “mai một”, cũng là để giữ lại nét đẹp văn hóa của nghề truyền thống nơi này.
LÊ NGUYÊN