Thứ Ba, 13/12/2016, 21:12 (GMT+7)
.
PHIÊN CHẤT VẤN TẠI KỲ HỌP THỨ 3 - HĐND TỈNH KHÓA IX:

" Nóng" những vấn đề về nông nghiệp

Tại Kỳ họp thứ 3 của HĐND tỉnh khóa IX đã diễn ra các phiên thảo luận sôi nổi, với nhiều vấn đề. Trong đó, nổi bật là vấn đề nhiều hộ dân trên địa bàn tỉnh chưa có nước máy sử dụng; khó khăn trong thực hiện Cánh đồng lớn; tình hình tội phạm và tai nạn giao thông với số vụ tăng cao… Nhiều vấn đề đã được các ngành hữu quan giải trình, trả lời chất vấn với tinh thần cởi mở, thẳng thắn, trách nhiệm cao, được đại biểu đồng tình. 

Đại biểu có ý kiến tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn.
Đại biểu có ý kiến tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn.

- Bức xúc chuyện nước sinh họat

Các tổ đại biểu HĐND đã đưa ra nhiều vấn đề bức xúc của cử tri để thảo luận, chất vấn và đã được các ngành hữu quan giải trình tại kỳ họp. Trong đó, một trong những vấn đề làm “nóng” nghị trường là vấn đề cung cấp nước hợp vệ sinh cho nhân dân sử dụng. Tại phiên thảo luận và chất vấn, đại biểu có ý kiến: Theo báo cáo của UBND tỉnh về kinh tế - xã hội thì tỷ lệ dân số nông thôn được cung cấp nước hợp vệ sinh năm 2016 đạt 97,28%, nhưng theo báo cáo giám sát của Ủy ban MTTQ tỉnh thì hiện nay trên địa bàn tỉnh còn 42.000 hộ dân chưa có nước máy sử dụng. Đề nghị UBND tỉnh cho biết mức độ chính xác của 2 số liệu trên và giải pháp đẩy mạnh việc cung cấp, nâng chất lượng nước sinh hoạt phục vụ nhân dân trong thời gian tới.

Trả lời vấn đề này, quyền Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) Cao Văn Hóa cho biết, theo Quyết định 2570/QĐ-BNN-TCTL ngày 22-10-2012 của Bộ NN-PTNN ban hành Bộ chỉ số theo dõi và đánh giá nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Nước hợp vệ sinh là nước từ các công trình cấp nước tập trung (tự chảy, bơm dẫn), các nguồn nước nhỏ lẻ (giếng đào hợp vệ sinh, giếng khoan hợp vệ sinh, bể (lu) chứa nước mưa hợp vệ sinh) hoặc các nguồn nước hợp vệ sinh khác (nước mó, nước suối...) được sử dụng trực tiếp hoặc sau khi xử lý thỏa mãn các điều kiện trong, không màu, không mùi, không vị. Nước máy hợp vệ sinh là nước từ các công trình cấp nước tập trung được xử lý qua hệ thống lắng lọc, khử trùng đảm bảo vệ sinh…

Về mức độ chính xác của 2 số liệu trên: Tỷ lệ dân số nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh trên địa bàn tỉnh là 97,28%, trong đó sử dụng từ trạm cấp nước tập trung (có lắp đặt đồng hồ đến nhà) là 86,20% (khoảng 330.900 hộ dân), từ công trình cấp nước nhỏ lẻ là 11,08% (khoảng 42.540 hộ dân). Hiện trên địa bàn tỉnh vẫn còn 52.983 hộ dân nông thôn (chiếm tỷ lệ 13,80%) chưa tiếp cận được nước máy từ các trạm cấp nước tập trung, trong đó có 10.443 hộ dân nông thôn chưa tiếp cận được nguồn nước hợp vệ sinh (chiếm tỷ lệ 2,72%), còn 42.540 hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh từ loại hình cấp nước nhỏ lẻ (chiếm 11,08%) chưa tiếp cận được với nguồn nước từ trạm cấp nước tập trung (nguồn nước máy).

Do vậy số liệu giám sát của Ủy ban MTTQ tỉnh đã phản ánh chính xác hiện trạng cấp nước sinh hoạt nông thôn trên địa bàn tỉnh hiện nay. Đa số các hộ này sống thưa thớt, ở vùng khó khăn, ven biển; lợi nhuận thấp nên chưa thu hút được nguồn vốn đầu tư của các đơn vị cấp nước; nguồn vốn ngân sách phân bổ đầu tư cho lĩnh vực cấp nước ngày càng hạn chế nên không có kinh phí để kéo tuyến ống đến các hộ dân xa khu dân cư…

Trước thực trạng trên, UBND tỉnh giao Sở NN-PTNT phối hợp với các địa phương rà soát, báo cáo đánh giá, phân loại hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cá nhân cấp nước sinh hoạt nông thôn trên địa bàn huyện, xây dựng kế hoạch củng cố, nâng chất và có biện pháp xử lý những trạm cấp nước yếu kém, hoạt động không hiệu quả; đồng thời có biện pháp xử lý các trường hợp không cung cấp nước đủ cho người dân sử dụng, cấp theo giờ, theo tuyến, không đáp ứng nhu cầu sử dụng của nhân dân trong khu vực dự án được duyệt.

UBND tỉnh sẽ tiếp tục kiến nghị với Trung ương quan tâm hỗ trợ kinh phí cho tỉnh từ nguồn ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu, nguồn vốn phòng, chống hạn mặn hàng năm, nguồn vốn của các tổ chức quốc tế để triển khai thực hiện các dự án cung cấp nước cho 13,80% dân số nông thôn còn lại (52.983 hộ dân) chưa tiếp cận được nguồn nước máy...

- Cánh đồng lớn bao giờ mới hiệu quả

Tại phiên chất vấn, liên quan đến việc thực hiện Cánh đồng lớn, đại biểu Võ Văn Láng (đơn vị huyện Cái Bè) chất vấn lãnh đạo ngành NN-PTNT: Chủ trương xây dựng Cánh đồng lớn đã bao gồm Nghị quyết của HĐND tỉnh, Quyết định triển khai của UBND tỉnh, địa phương đã tổ chức thực hiện, nhưng hiện nay sự liên kết giữa doanh nghiệp (DN) và nông dân còn khó khăn trong vấn đề tiêu thụ nông sản. Đề nghị UBND tỉnh cho biết trách nhiệm thuộc về ai và có giải pháp gì trong thời gian tới?

Quyền Giám đốc Sở NN-PTNN Cao Văn Hóa giải trình: Ngày 11-12-2015, HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết  129/2015/NQ-HĐND quy định mức hỗ trợ phát triển Cánh đồng lớn, gắn sản xuất với tiêu thụ nông sản trên địa bàn tỉnh và ngày 24-5-2016, UBND tỉnh có Quyết định 24/2016/QĐ-UBND ban hành quy định mức hỗ trợ phát triển Cánh đồng lớn gắn sản xuất với tiêu thụ nông sản trên địa bàn tỉnh; thành lập Ban Điều hành xây dựng Cánh đồng lớn trên địa bàn tỉnh và Kế hoạch 276/KH-UBND ngày 1-1-2014 về thực hiện Cánh đồng lớn sản xuất lúa trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2014 - 2020. Kết quả sau hơn 5 năm triển khai thực hiện đã có 14 DN ký hợp đồng 47 cánh đồng với 16.416 ha (chiếm 6,9% diện tích gieo trồng lúa), nhưng đến thời điểm hiện nay chỉ còn 3 DN và 1 hợp tác xã (HTX) duy trì; tỷ lệ thực hiện hợp đồng thành công chỉ đạt 59% diện tích ký kết, khó khăn nhất là sự liên kết giữa DN và nông dân, bởi phía nông dân vẫn còn một bộ phận lớn chưa nhận thức đầy đủ lợi ích của việc tham gia và sản xuất trong Cánh đồng lớn, còn quan niệm đây là mô hình Nhà nước phải đầu tư, hỗ trợ và khi tham gia sẽ được mua lúa với giá cao.

Ngoài ra, khi giá thị trường biển động, vội vàng bán cho thương lái, mà không thương thảo, đàm phán lại với DN, chưa tin tưởng DN, cũng chưa coi trọng tính chất hợp đồng trong thực hiện Cánh đồng lớn. Còn phía DN thì điều chỉnh giá không theo kịp thị trường, cơ chế xác định giá theo thị trường còn phức tạp nên hợp đồng bị phá vỡ. Ngoài ra, năng lực DN còn hạn chế, nên trong quá trình tổ chức sản xuất gặp khó khăn trong khâu thu hoạch và vận chuyển sản phẩm còn bị động; chi phí đầu tư cao nhưng lợi nhuận chưa tương xứng nên không mặn mà tham gia. Các tổ chức đại diện nông dân (tổ hợp tác, hợp tác xã) chưa phát huy vai trò là cầu nối giữa nông dân và DN; một số cơ chế, chính sách đã ban hành nhưng chưa đồng bộ...

Để giải quyết các vấn đề trên, UBND tỉnh đề ra một số giải pháp như sau:

Đối với nông dân: Tiếp tục tuyên truyền, vận động xây dựng Cánh đồng lớn cả chiều rộng và chiều sâu với nhiều hình thức để người dân hiểu rõ vai trò, ý nghĩa, lợi ích của việc tham gia xây dựng Cánh đồng lớn. Đối với DN: Chọn DN đủ tầm, đủ năng lực và tâm huyết xây dựng phương án thực hiện Cánh đồng lớn; thiết lập và duy trì được tiếng nói chung giữa DN và nông dân, trong đó cốt lõi là luôn luôn tìm cách chia sẻ lợi ích cùng nông dân. Các DN thực hiện phương án phải xây dựng kế hoạch thực hiện hằng năm, trong đó hợp đồng ký kết với nông dân mang tính lâu dài, bền vững ít nhất là 2 vụ trong năm liên tục theo phương án được duyệt. Khi có tranh chấp xảy ra, DN phải đối thoại, trả lời và giải quyết các vấn đề nông dân đặt ra theo cách đôi bên cùng có lợi.

UBND tỉnh chỉ đạo các sở, ngành và địa phương nâng cao vai trò, trách nhiệm và xác định xây dựng Cánh đồng lớn trong sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, giúp nông dân an tâm sản xuất bền vững. Phối hợp, lồng ghép, thực hiện chính sách hỗ trợ xây dựng Cánh đồng lớn. Cụ thể, sẽ triển khai Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững - VnSAT tại các vùng lúa trọng điểm của tỉnh. Về cơ chế, chính sách: UBND tỉnh sẽ kiến nghị Chính phủ sửa đổi khoản 3, Điều 13, Nghị định 109/2010/NĐ-CP của Chinh phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo theo hướng bắt buộc các DN xuất khẩu gạo phải xây dựng phương án Cánh đồng lớn...

HOÀI THU

.
.
.