Thứ Ba, 18/06/2013, 11:52 (GMT+7)
.

Xử lý nghiêm các vi phạm về môi trường tại các khu, cụm công nghiệp

Ô nhiễm môi trường khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN) hiện đang trở thành một vấn đề môi trường cấp bách, làm suy thoái môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế - xã hội.

Ô nhiễm nghiêm trọng từ môi trường nước, không khí, chất thải rắn

Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến tháng 9-2012, cả nước đã có 283 KCN, khu chế xuất được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 80 nghìn ha trên phạm vi 58 tỉnh, thành phố, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt gần 52 nghìn ha, chiếm 65% tổng diện tích đất.  Ngoài ra, còn có khoảng 878 CCN do địa phương thành lập.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy các KCN, CCN hiện tại không tuân theo quy hoạch thống nhất, một số nơi thiếu cơ sở khoa học do chưa được giải quyết đồng bộ giữa đầu tư cơ sở hạ tầng và bảo vệ môi trường (BVMT). Nhiều KCN vừa thu hút đầu tư, vừa xây dựng cơ sở hạ tầng không tuân thủ thiết kế dự án đầu tư dẫn đến không xây dựng nhà máy xử lý nước thải tập trung, cũng như việc đầu tư cho hệ thống thoát nước còn manh mún, chắp vá, không hiệu quả.

Hầu hết các địa phương đều có KCN riêng với các chức năng giống nhau, tạo ra sự cạnh tranh không cần thiết, việc lựa chọn địa điểm cho KCN thường không tuân thủ theo những quy định liên quan. Quy trình thiết kế và thực hiện các quy hoạch phát triển công nghiệp có nhiều đơn vị cùng tham gia, nhưng lại thiếu sự điều phối chung và chịu trách nhiệm đến cùng.

a
Ô nhiễm môi trường KCN, CCN đang trở thành một vấn đề môi trường cấp bách. Ảnh minh họa - Như Lam

Đặc biệt, có thể nhận thấy, ô nhiễm môi trường ở các KCN, CCN ở nước ta hiện nay chủ yếu là do sự ô nhiễm từ môi trường nước, không khí và chất thải rắn.

Ô nhiễm môi trường nước do nước thải từ KCN trong những năm gần đây là rất lớn, tốc độ gia tăng này cao hơn rất nhiều so với tổng nước thải từ các lĩnh vực khác.

Theo số liệu thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tỷ lệ các KCN có trạm xử lý nước thải tập trung chỉ chiếm 66%, nhiều KCN đã đi vào hoạt động mà hoàn toàn chưa triển khai xây dựng hệ thống xử lý nước thải cục bộ nhưng không vận hành, hay vận hành không hiệu quả hoặc xuống cấp. Trong khi đó, theo ước tính có khoảng 70% trong tổng số hơn một triệu m3 nước thải ngày, đêm phát sinh từ các KCN được xả thẳng ra nguồn tiếp nhận mà không qua xử lý.

Ô nhiễm môi trường không khí, thường chủ yếu tập trung tại các KCN cũ, do các KCN này đang sử dụng công nghệ sản xuất lạc hậu hoặc chưa được đầu tư hệ thống xử lý khí thải trước khi thải ra môi trường. Ô nhiễm không khí tại các KCN chủ yếu là bụi, một số KCN có biểu hiện ô nhiễm CO2, SO2 và tiếng ồn.

Trong khi đó, tại các KCN mới, do được đầu tư công nghệ hiện đại, hệ thống xử lý khí thải đồng bộ trước khi xả thải ra môi trường, nên tình trạng ô nhiễm môi trường không khí tại các KCN này đã được cải thiện một cách rõ rệt. Thống kê cho thấy, năm 2011, mỗi ngày các KCN thải ra khoảng tám nghìn tấn chất thải rắn (CTR), tương đương khoảng ba triệu tấn một năm.

Tuy nhiên, lượng CTR đang tăng lên cùng với việc gia tăng tỷ lệ lấp đầy các KCN. Nếu như tính trung bình cả nước, năm 2005 - 2006, một ha diện tích đất cho thuê phát sinh CTR khoảng 134 tấn/năm, thì đến năm 2008 - 2009, con số này đã tăng lên 204 tấn/năm (tăng 50%).

Sự gia tăng phát thải trên đơn vị diện tích đã phản ánh sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất công nghiệp, xuất hiện các ngành có mức phát thải cao và quy mô ngày càng lớn tại các khu công nghiệp và dự báo tổng phát thải CTR từ các KCN năm 2015 sẽ vào khoảng 6 - 7,5 triệu tấn/năm và đến năm 2020 đạt từ 9 - 13,5 triệu tấn/năm.

Tăng cường thanh tra, xử lý nghiêm các vi phạm môi trường tại KCN, CCN

Ô nhiễm môi trường KCN, CCN đang trở thành một vấn đề môi trường cấp bách, làm suy thoái môi trường, đe dọa trực tiếp đến các thành quả về phát triển kinh tế - xã hội, cũng như tác động trực tiếp đến sức khỏe của người dân.

Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bùi Cách Tuyến, có nhiều nguyên nhân khiến ô nhiễm môi trường trầm trọng đang diễn ra tại các KCN, CCN. Cụ thể, sự phát triển các KCN, CCN không đồng bộ với các điều kiện hạ tầng kỹ thuật về môi trường. Nhiều KCN, CCN chưa được đầu tư hệ thống xử lý nước thải tập trung, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; hoạt động khai thác khoáng sản ở nhiều địa phương thiếu sự quản lý chất thải chặt chẽ làm gia tăng các điểm nóng về ô nhiễm môi trường; tỷ lệ thu gom rác thải và xử lý chất thải rắn, chất thải y tế, nước thải sinh hoạt và công nghiệp đúng quy chuẩn còn thấp.

Khí thải, bụi phát sinh từ hoạt động giao thông vận tải, xây dựng, cơ sở sản xuất không được kiểm soát chặt chẽ đã và đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại các thành phố lớn, lưu vực sông; chất thải từ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của người dân khu vực nông thôn không được thu gom, xử lý đúng quy cách, hợp vệ sinh...

Tình trạng coi trọng các lợi ích kinh tế trước mắt, coi nhẹ công tác bảo vệ môi trường còn phổ biến. Nhiều quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường còn chồng chéo, mâu thuẫn, không khả thi nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời; thực thi pháp luật chưa nghiêm…

Để từng bước khắc phục tình trạng nói trên, thời gian tới cần tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra pháp luật về BVMT tại các khu KCN, xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm, cũng như kiên quyết đình chỉ hoạt động hoặc cấp hoạt động theo quy định của pháp luật.

Nâng cao chất lượng hiệu của hoạt động đánh giá môi trường chiến lược, tác động môi trường đối với các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và dự án phát triển, nhất là ở khâu thẩm định, kiểm tra sau thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường nhằm bảo đảm các dự án trước khi đi vào hoạt động được xác nhận hoàn thành công trình, biện pháp BVMT, đồng thời chỉ cho phép xây dựng các nhà máy, dự án trong KCN, CCN sau khi đã hoàn thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình BVMT.

Bên cạnh đó, cần sửa đổi, bổ sung Nghị định số 140/2006/NĐ- CP của Chính phủ về quy định việc BVMT trong các khâu lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình và dự án phát triển theo hướng làm rõ đối tượng áp dụng, tăng cường hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra và các chế tài xử lý.

Ngoài ra, cần phát huy hơn nữa vai trò của các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc giám sát thực thi chính sách, pháp luật về BVMT tại các địa phương.

(Theo dangcongsan.vn)

.
.
.