Thứ Sáu, 03/06/2016, 16:00 (GMT+7)
.

Tranh chấp 2,88 mét vuông đất, giải quyết 24 năm chưa xong

Đó là trường hợp của bà Đặng Thị Hạnh (ngụ tổ 10, khu 4, thị trấn Cái Bè, huyện Cái Bè) cho gia đình bà Phạm Thị Xuân (hộ liền kề) mượn một phần mái hiên nhà (1,6 x 1,8 = 2,88 m2) để chứa trấu làm chất đốt trong những năm cuối 1980.

Sau đó, gia đình bà Xuân chiếm dụng luôn nên hai bên xảy ra tranh chấp. Từ năm 1992 đến nay, nhiều ngành, nhiều cấp đưa ra giải quyết yêu cầu phía bà Xuân giao trả phần đất trên cho hộ bà Hạnh nhưng vẫn chưa có kết quả vì bà Xuân cho rằng phần đất này gia đình bà đã được Nhà nước cấp chủ quyền năm 2003 ?!.

Quá trình giải quyết

Ngày 1-2-1993, ông Lê Đức Trọng, Chủ tịch UBND thị trấn Cái Bè (huyện Cái Bè) ban hành Quyết định số 02/QĐ-UB, buộc bà Phạm Thị Xuân phải tháo gỡ toàn bộ (mé trái) hiên nhà, diện tích 2, 88 m2 trả lại cho bà Đặng Thị Hạnh sử dụng. Bà Xuân không thống nhất làm đơn gởi Tòa án huyện Cái Bè xem xét giải quyết.

Lẽ ra, trong trường hợp này, Tòa án không nên thụ lý vì không thuộc thẩm quyền.Nhưng ngược lại, Tòa án huyện Cái Bè (lúc bấy giờ) thụ lý và đưa ra xét xử: “Hủy QĐ số 02/QĐ-UB ngày 1-2-1993 của UBND thị trấn Cái Bè và bác yêu cầu đòi 2,88 m2 đất của bà Đặng Thị Hạnh, làm cho sự việc trở nên phức tạp hơn.

Ngày 13-7-1994, TAND tỉnh đưa ra giải quyết xét thấy: Đây là loại việc thuộc thẩm quyền giải quyết của UBND địa phương; nếu đương sự không chấp nhận QĐ của UBND cấp cơ sở thì khiếu nại lên UBND cấp huyện giải quyết.

Việc TAND huyện thụ lý giải quyết vụ việc khi chưa có ý kiến của UBND huyện là vi phạm thủ tục tố tụng. Do đó, TAND tỉnh Quyết định, hủy bản án sơ thẩm số 50/DSST ngày 26-8-1993 của TAND huyện Cái Bè, giao hồ sơ về cấp sơ thẩm giải quyết theo thẩm quyền. Thế nhưng, vụ việc“rơi vào im lặng”suốt gần 20 năm sau đó.

Năm 2012, gia đình bà Xuân tháo dỡ nhà cũ xây cất nhà mới lấn chiếm phần đường thoát nước công cộng và xây dựng luôn trên phần đất 2,88 m2 của hộ bà Hạnh. Nhiều lần, gia đình bà Hạnh gửi đơn nhờ các ngành chức năng huyện Cái Bè can thiệp nhưng không được xem xét, giải quyết với lý do: “Huyện cấp phép xây dựng cho hộ bà Xuân, ông Hùng là đúng với quy định của pháp luật…”. Sau đó, bà Hạnh gởi đơn về tỉnh “kêu cứu”.

Tháng 7-2013, Thanh tra tỉnh về thẩm tra lại toàn bộ vụ việc cho thấy: Việc tranh chấp 2,88 m2 đất giữa bà Hạnh và bà Xuân đã được UBND thị trấn Cái Bè giải quyết tại Quyết định số 02/QĐ.UB ngày 1-2-1993: “Buộc bà Xuân phải tháo dỡ toàn bộ phần mé trái hiên nhà diện tích 2,88 m2 trả lại cho bà Hạnh sử dụng”. Sau khi có quyết định, hộ bà Xuân không chấp hành và cũng không khiếu nại; phía bà Hạnh cũng không yêu cầu cơ quan chức năng thực hiện quyết định.

Năm 2003, hộ bà Xuân có đơn xin xác định đất thổ cư tọa lạc tại số 206, đường tỉnh 875, khu 4, thị trấn Cái Bè được cơ quan địa chính tiến hành đo đạc xác định ranh giới theo hiện trạng sử dụng của bà Xuân (trong đó có phần diện tích 2,88 m2 đã có quyết định công nhận cho bà Hạnh).

Tại thời điểm đo đạc, bà Hạnh vắng mặt nên không có ý kiến gì về việc đo đạc cấp giấy chủ quyền cho bà Xuân. Do đó, hộ bà Xuân, ông Hùng (chồng) được UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và QSDĐ ở số 13475 ngày 28-8-2003 (bao gồm cả phần diện tích 2,88 m2 đất của bà Hạnh). Sau đó, bà Xuân tiếp tục được UBND huyện Cái Bè cấp Giấy chứng nhận QSDĐ số 01419-QSDĐ ngày 24-11-2004 (cũng trùm luôn 2,88 m2 đất của bà Hạnh).

Từ cơ sở thẩm tra, xác minh (nêu trên) của Thanh tra tỉnh, ngày 25-12-2013, UBND tỉnh ban hành Quyết định số 3513/QĐ-UBND về việc thu hồi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và QSDĐ ở cấp cho bà Phạm Thị Xuân và ông Đặng Văn Hùng, địa chỉ số 206, đường tỉnh 875, khu 4, thị trấn Cái Bè (hồ sơ gốc số 13475, cấp ngày 28-8-2003). Thu hồi, chỉnh lý lại Giấy chứng nhận QSDĐ số 01419, ngày 24-11-2004 do UBND huyện Cái Bè thực hiện theo đúng thẩm quyền và trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 88/2009/NĐ-CP của Chính phủ.

Ngày 2-2-2015, ông Nguyễn Quốc Thanh, Chủ tịch UBND huyện Cái Bè ban hành Quyết định số 439/QĐ-UBND về việc hủy Giấy chứng nhận QSDĐ số 01419 do UBND huyện Cái Bè cấp cho bà Phạm Thị Xuân để điều chỉnh lại diện tích sử dụng cho phù hợp với quy định của pháp luật.

Đất gốc vẫn chưa về “cố chủ”

Năm 2014, bà Hạnh làm đơn gởi UBND huyện Cái Bè xin cấp chủ quyền đất được Chủ tịch UBND huyện phê chuẩn tại Công văn số 1611/UBND-NC ngày 21-8-2014 chỉ đạo cho UBND thị trấn Cái Bè hướng dẫn lập thủ tục đăng ký QSDĐ. Tuy nhiên, khi cán bộ Văn phòng đăng ký QSDĐ huyện đến đo đạc thì gặp phải sự ngăn cản, bất hợp tác của gia đình bà Xuân nên đến nay không thực hiện được. Sau đó, UBND thị trấn Cái Bè mời đến làm việc thì gia đình bà Xuân vắng mặt không lý do…

Ông Nguyễn Văn Cập, Trưởng Phòng TN&MT huyện Cái Bè cho biết: Thực hiện Quyết định số 439/QĐ-UBND của UBND huyện Cái Bè về việc hủy Giấy chứng nhận QSDĐ của gia đình bà Xuân, Phòng gửi thư mời đến triển khai quyết định nhưng gia đình bà không đến. Phòng trực tiếp xuống nhà thì vợ chồng bà Xuân, ông Hùng vắng mặt để con gái (chị Hiền) ra trả lời “không nhận quyết định và không ký biên bản”.

Từ tháng 4-2015 đến nay, UBND thị trấn Cái Bè công khai niêm yết Quyết định của huyện để làm cơ sở giải quyết theo thủ tục pháp lý nhưng gia đình bà Xuân vẫn “phớt lờ” không đến và cũng không gửi đơn khiếu nại, gây khó khăn cho việc cấp chủ quyền đất cho gia đình bà Hạnh.

Chúng tôi thiết nghĩ, từ Quyết định Bản án dân sự phúc thẩm số 118 ngày 13-7-1994 của TAND tỉnh đến các Quyết định số 02/QĐ-UB ngày 1-2-1993 của UBND thị trấn Cái Bè, 2 Quyết định số 4567, 439/QĐ-UBND của UBND huyện Cái Bè và Quyết định số 3513/QĐ-UBND của UBND tỉnh đã xác định 2,88 m2 đất (nêu trên) thuộc quyền sử dụng của gia đình bà Đặng Thị Hạnh, đã đủ cơ sở để cơ quan thẩm quyền huyện Cái Bè tiến hành lập hồ sơ, thủ tục pháp lý để cấp chủ quyền đất tại thửa số 158, tờ bản đồ số 7 với diện tích 93,9 m2 cho hộ bà Hạnh theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình công khai việc cấp Giấy chứng nhận QSDĐ cho bà Hạnh, nếu hộ bà Phạm Thị Xuân có khiếu nại, tranh chấp thì có quyền gửi đơn theo trình tự quy định của pháp luật. Không vì lý do bất hợp tác, không ký giáp ranh của bà Xuân (hộ liền kề) để một vụ việc đơn giản kéo dài 24 năm vẫn còn tồn đọng.

TỔ CTBĐ

.
.
.