Sự ra đời của lá cờ đỏ sao vàng ở tỉnh Mỹ Tho
Từ tháng 3-1940, khi đề cương khởi nghĩa được Xứ ủy Nam kỳ triển khai thì cùng lúc đồng chí Phan Văn Khỏe - Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, Bí thư Tỉnh ủy Mỹ Tho (1) được Xứ ủy Nam kỳ giao nhiệm vụ thiết kế mẫu cờ Mặt trận. Đồng chí Phan Văn Khỏe giao nhiệm vụ này cho đồng chí Lê Quang Sô, người phụ trách công tác Mặt trận và cơ sở in ấn tài liệu của Tỉnh ủy Mỹ Tho.
Đồng chí Lê Quang Sô sinh năm 1894 ở quận Chợ Gạo, tỉnh Mỹ Tho, tham gia hoạt động cách mạng rất sớm, đảng viên Đảng Cộng sản, là trí thức Nho học nhưng biết rành tiếng Pháp. Ông đi Trung Quốc năm 1927, từng gặp nhà ái quốc Phan Bội Châu, từng ở tù Côn Đảo cùng với Ngô Gia Tự, Trần Văn Giàu, Lư Sanh Hạnh...
Khi ra tù, ông được Tỉnh ủy Mỹ Tho giao nhiệm vụ mở 3 lớp đào tạo cán bộ năm 1937-1939. Đồng chí Lê Quang Sô cũng là người dịch quyển "Chiến lược và chiến thuật du kích chiến tranh" của Trung Quốc ra tiếng Việt để trang bị kiến thức quân sự cho các chiến sĩ cách mạng trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa.
"Khởi nghĩa Nam kỳ 1940 mặc dù thất bại, nhưng nó đã để lại cho toàn thể dân tộc ta một vật báu tiêu biểu cho truyền thống đấu tranh cách mạng anh dũng, cho hy vọng đầy tràn của nhân dân vào tương lai xán lạn của dân tộc. Đó là lá cờ đỏ sao vàng năm cánh - lá cờ của cuộc khởi nghĩa Nam kỳ và sau này là Quốc kỳ Việt Nam". Giáo sư, Nhà giáo nhân dân |
Khi giao nhiệm vụ cho đồng chí Lê Quang Sô, đồng chí Phan Văn Khỏe có trao đổi và gợi ý về đòi hỏi của các tầng lớp dân chúng cần có một lá cờ Mặt trận, lá cờ đoàn kết rộng rãi các giai tầng xã hội. Đòi hỏi đó là đúng đắn, cần nghiên cứu.
Trong lúc bị thực dân Pháp giam cầm ở nhà tù Côn Đảo, đồng chí Lê Quang Sô từng nghe kể về ước nguyện của đồng chí Trần Phú - Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta từ năm 1931 là: “Sau này nước nhà độc lập sẽ lấy cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ”.
Đồng chí Lê Quang Sô đem ý nguyện của đồng chí Trần Phú tham khảo với ông Lê Kiến Đức - một nhà Nho tiến bộ, trước đây đã từng bán đất để góp tiền xây dựng Nam Cường thư xã (nhà sách của Đảng bộ tỉnh Mỹ Tho).
Ông Lê Kiến Đức bày tỏ sự trăn trở khi nghĩ tới lá cờ: “Mỗi nước đều có lá cờ của mình, trong đó chứa đựng ý nghĩa của nó như cờ Pháp, cờ Liên Xô, cờ Nhật… Còn mình lấy cái gì làm nội dung đây?”.
Theo ý kiến của đồng chí Lê Quang Sô: Lá cờ của Đảng mình là cờ đỏ búa liềm, nay thêm cờ Mặt trận, thêm một cờ đỏ nữa, nền đỏ phải giữ, còn bên trong thì phải tính... Sau đó đồng chí Lê Quang Sô và đồng chí Hồ Tri Hạ (đảng viên ở Bà Rịa lánh địch theo đồng chí Lê Quang Sô về tham gia hoạt động cách mạng ở Mỹ Tho) mày mò vẽ các kiểu ngôi sao, vẽ đi vẽ lại nhiều lần, cuối cùng chọn ngôi sao năm cánh màu vàng vì thấy đẹp. Ngôi sao được dời đi dời lại khắp mọi nơi trên lá cờ, cuối cùng được chọn đặt ở vị trí giữa cờ.
Qua tham khảo ý kiến của nhiều đồng chí khác, đồng chí Phan Văn Khỏe đồng ý với hình mẫu được phác thảo này. Tháng 4-1940, mẫu cờ nền đỏ sao vàng năm cánh ở giữa đã hoàn thành.
Tháng 7-1940, Hội nghị Xứ ủy Nam kỳ ở xã Tân Hương, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho họp và quyết nghị nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến cuộc khởi nghĩa, trong đó có hình thức của chính quyền, Quốc kỳ, khẩu hiệu, chính sách đối với các tầng lớp nhân dân.
Quốc kỳ là cờ đỏ sao vàng năm cánh, nền đỏ tượng trưng cho cách mạng; năm cánh sao tượng trưng cho các tầng lớp: sĩ, nông, công, thương, binh đoàn kết; màu vàng có ý nghĩa là màu dân tộc. Kích cỡ lá cờ cũng được sơ bộ quy định thống nhất: lá cờ hình chữ nhật, bề dài bằng 1,5 bề ngang, ngôi sao năm cánh bằng 1/3 bề dài lá cờ và đặt ở trung tâm.
Như vậy, Hội nghị Xứ ủy Nam kỳ tháng 7-1940 ở xã Tân Hương, quận Châu Thành thông qua phác thảo lá cờ đỏ sao vàng năm cánh ở giữa do Tỉnh ủy Mỹ Tho thiết kế làm Quốc kỳ của “Việt Nam dân chủ cộng hòa quốc” và sẽ được treo phổ biến trong toàn Nam kỳ khi cuộc khởi nghĩa diễn ra.
Tháng 8-1940, đồng chí Phan Văn Khỏe giao nhiệm vụ cho Quận ủy Châu Thành tổ chức mua vải và may lá cờ đỏ sao vàng thật to theo mẫu thiết kế của đồng chí Lê Quang Sô, chuẩn bị hiệu triệu cho cuộc khởi nghĩa.
Để may được lá cờ lớn (dài 2,5 mét, rộng 1,8 mét) chỉ cần có 6 mét vải tây đỏ (khổ 0,8 mét), nhưng tìm được vải đỏ là hết sức khó khăn, vì vải đỏ, giấy điều đều bị chính quyền thống trị cấm buôn bán, ai lưu giữ bị phát hiện sẽ vô cùng phiền phức.
Được sự chỉ đạo của Tỉnh ủy Mỹ Tho, Quận ủy Châu Thành vận động được một chủ tiệm vải người Hoa ở chợ Vĩnh Kim nhượng lại toàn bộ số vải đỏ mà tiệm đang có khoảng 20 mét, khổ 0,4 mét. Số lượng vải này đủ may một lá cờ và một băng rôn.
Đồng chí Tám Thẩm, Quận ủy viên quận Châu Thành nhận may cờ với lời căn dặn phải may chắc chắn, cờ phải chịu được mưa to gió lớn nhiều ngày. Cờ được may tại nhà đồng chí Tám Thẩm ở xã Long Hưng.
Vải đỏ có rồi, vải vàng không bị cấm nhưng cũng rất hiếm, trong xã chỉ có một gia đình có được vải vàng đó là bức Tiền Bàn trước bàn thờ gia tiên, chủ gia liền tháo ra gởi đến may ngôi sao. “Đại kỳ” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hoàn thành.
Ủy ban khởi nghĩa quận Châu Thành giao Đại kỳ cho chi bộ xã Long Hưng treo khi cuộc khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân diễn ra.
Đêm 22 rạng ngày 23-11-1940, trong lúc lực lượng khởi nghĩa chiếm nhà việc xã Long Hưng thì đồng chí Tư Hiệp - Bí thư chi bộ xã Long Hưng cùng với hai đảng viên dùng tầm vông làm cán cờ treo lá cờ trên chót vót ngọn cây bàng tại đình Long Hưng - trụ sở của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Mỹ Tho.
Cùng với xã Long Hưng, quận Châu Thành, cờ đỏ sao vàng xuất hiện khắp tỉnh Mỹ Tho. Sau đó, trong các văn bản và hội nghị quan trọng của Đảng và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức xác định lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ của nhà nước Việt Nam mới (2).
Đình Long Hưng. |
Trong hội thảo khoa học “Mỹ Tho từ cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940 đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945” tổ chức ngày 21-10-2005, đồng chí Nguyễn Trọng Phúc - Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Viện Trưởng Viện Lịch sử Đảng có phát biểu như sau: “Theo chúng tôi, có một vấn đề chung cần thống nhất khẳng định là “lá cờ đỏ sao vàng” là có chủ trương của Đảng, lá cờ là biểu trưng của Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Nói chủ trương của Đảng là nói chung, nhưng trực tiếp xây dựng lá cờ là Xứ ủy Nam kỳ. Và thực tế đồng chí Tiến, đồng chí Khỏe và một số đồng chí nữa đều tham gia Xứ ủy Nam kỳ. Do đó có thể kết luận “lá cờ đỏ sao vàng” là do các đồng lãnh đạo Xứ ủy Nam kỳ trực tiếp xây dựng; ý tưởng và kết quả công trình “lá cờ đỏ sao vàng” là của tập thể chứ không riêng của cá nhân nào…
Cho nên, xoay quanh “lá cờ đỏ sao vàng”, chúng tôi đề nghị Hội thảo thống nhất như thế. Chúng ta khẳng định lá cờ ra đời như thế và sau này được Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (năm 1941) quyết định “lá cờ đỏ sao vàng” trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ được chọn là lá cờ của Mặt trận Việt Minh. Và đến Quốc dân Đại hội Tân Trào quyết định lấy “lá cờ đỏ sao vàng” là lá cờ chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đến Quốc hội khóa I chính thức trở thành Quốc kỳ”.
Ngày 28-1-2007, đồng chí Nông Đức Mạnh - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam có đến tham quan đình Long Hưng và ghi vào sổ cảm tưởng như sau: “Đình Long Hưng - di tích lịch sử Quốc gia, nơi đầu tiên xuất hiện lá cờ đỏ sao vàng trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ tháng 11-1940, là biểu tượng sáng ngời của ý chí kiên cường, tinh thần quật khởi của nhân dân ta không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ. Tinh thần đó đã được phát huy cao độ, làm nên những chiến công thần kỳ, góp phần tạo nên thắng lợi hoàn toàn, trọn vẹn của đất nước ta trong chiến tranh cách mạng giải phóng dân tộc” (3).
(1) Tháng 1-1941, đồng chí Phan Văn Khỏe được các đồng chí còn lại sau cuộc khởi nghĩa năm 1940 đề cử giữ chức vụ Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ. (2) Hội nghị Trung ương VIII quyết định thành lập tổ chức Việt Nam Độc lập đồng minh vào tháng 5-1941 (Khui Nậm, Cao Bằng), trong đoạn mở đầu chương trình Việt Minh ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm Quốc kỳ”. - Sắc lệnh số 5 ấn định Quốc kỳ Việt Nam là cờ đỏ sao vàng. - Trong cuộc họp của Quốc hội khóa I, ngày 2-3-1946, Hồ Chủ tịch đã xác định: “Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam kỳ khởi nghĩa năm 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á, cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam”. (3) Bài viết có sử dụng tài liệu: - Kỷ yếu Hội thảo khoa học Mỹ Tho từ cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940 đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945 (Tỉnh ủy Tiền Giang và Viện Lịch sử Đảng Trung ương, tháng 11-2005). - Hồi ký đồng chí Lê Quang Sô, bản đánh máy (Lưu trữ Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Tiền Giang). - An ninh thế giới (Năm thứ 9, bộ mới số 145 (379), ra ngày thứ năm 29-4-2004). - Nguyễn Văn Kết: Khởi nghĩa Nam kỳ và những đóng góp quan trọng cho cách mạng Việt Nam qua tài liệu lưu trữ (Tạp chí Văn thư lưu trữ Việt Nam). |
TS. LÊ VĂN TÝ