Thứ Sáu, 20/12/2013, 16:48 (GMT+7)
.

Các tổ chức vũ trang cách mạng trước Tổng Khởi nghĩa Tháng 8-1945

* ĐỘI TỰ VỆ CÔNG NÔNG:

Đây là tổ chức vũ trang cách mạng đầu tiên của Đảng ta, là tên gọi chung của các đội tự vệ ra đời ở Nghệ Tĩnh và một số địa phương trong cao trào cách mạng 1930-1931, do yêu cầu bảo vệ quần chúng trong các cuộc đấu tranh kinh tế và đấu tranh chính trị.

Ở Nghệ Tĩnh, các đội tự vệ do các đảng bộ địa phương tổ chức, gọi là tự vệ đỏ. Đội viên được lựa chọn từ các tổ chức quần chúng, được trang bị liềm, búa, giáo mác. Các đội tự vệ làm lực lượng xung kích trong các cuộc đấu tranh và là công cụ chuyên chính của chính quyền xô-viết ở nông thôn.

Ở các địa phương khác trong cuộc bãi công của công nhân đồn điền Phú Riềng (tháng 2-1930), các cuộc mít tinh, biểu tình của thợ thuyền khu vực xung quanh Sài Gòn cuối năm 1930…Các đội tự vệ gồm đảng viên và quần chúng trung kiên đã thuyết phục và khống chế, chống lại binh lính địch, giữ vững đấu tranh.

* QUÂN DU KÍCH NAM KỲ:

Là tên gọi chung các đội vũ trang (du kích tự vệ) ra đời trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ, tháng 11-1940. Các đội du kích tự vệ do các đảng bộ địa phương lập ra trong khi chuẩn bị khởi nghĩa, trên cơ sở các tổ chức quần chúng. Hình thức tổ chức từ tổ đến trung đội. Chỉ huy là đảng viên hoặc quần chúng trung kiên.

Trong quá trình khởi nghĩa, các đội là lực lượng nòng cốt, cùng nhân dân chiếm đồn bót, chặn đánh quân Pháp đi đàn áp và bảo vệ chính quyền cách mạng mới lập ra ở Gia Định, Vĩnh Long, Mỹ Tho... Khởi nghĩa lắng xuống (cuối năm 1940) các đội rút về các căn cứ, bảo tồn lực lượng, duy trì lực lượng lâu dài.

* ĐỘI DU KÍCH BẮC SƠN:

Ra đời trong cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (Lạng Sơn) năm 1940. Trong cuộc khởi nghĩa (từ 27-9-1940), Đảng bộ Bắc Sơn tập hợp đảng viên, chiến sĩ tự vệ, quần chúng hăng hái tham gia cách mạng lập ra đội du kích làm nòng cốt cho nhân dân đấu tranh. Đội chính thức thành lập ngày 14-2-1941, tại rừng Khuổi Nọi (Vũ Lễ, Bắc Sơn, Lạng Sơn) gồm 32 người thuộc các dân tộc Tày, Nùng, Dao, Kinh; biên chế thành 3 tiểu đội, do đồng chí Lương Văn Tư, Ủy viên xứ ủy Bắc kỳ chỉ huy.

Đồng chí Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, thay mặt Trung ương công nhận, trao cờ đỏ sao vàng và giao nhiệm vụ cho đội.

* CỨU QUỐC QUÂN:

Tên gọi tổ chức vũ trang được xây dựng trên cơ sở Đội du kích Bắc Sơn, Cứu quốc quân có 3 trung đội, trung đội 1 là Đội du kích Bắc Sơn được đổi tên thành Cứu quốc quân.Trung đội có 37 người. Trung đội 2 được thành lập ngày 15-9-1941, tại rừng Khuôn Mánh (Vũ Nhai, Thái Nguyên) gồm 47 người, chiến sĩ của trung đội là cán bộ, đảng viên và đội viên tự vệ được lựa chọn trong phong trào đấu tranh cách mạng ở địa phương.

Trung đội 3, được thành lập ngày 25-2-1944 tại Khuổi Kịch, châu Sơn Dương, Tuyên Quang. Chiến sĩ của trung đội là các chiến sĩ cứu quốc quân hoạt động ở nam Đại Từ, Tuyên Quang, Vĩnh Yên.

Cứu quốc quân là một trong những tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.

* ĐỘI VŨ TRANG CAO  BẰNG:

Thành lập cuối năm 1941 tại Pắc Bó (Cao Bằng) theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Đội gồm 12 người được trang bị 6 súng do đồng chí Lê Quảng Ba làm đội trưởng, Lê Thiết Hùng làm chính trị viên và đồng chí Hoàng Sâm làm đội phó. Đội được giao nhiệm vụ bảo vệ cơ quan lãnh đạo của Đảng; củng cố và giữ vững đường giao thông liên lạc; vũ trang tuyên truyền; tổ chức và huấn luyện quân sự cho tự vệ chiến đấu của nhân dân địa phương.

Đội vũ trang Cao Bằng tuy nhỏ bé nhưng đã góp phần xứng đáng vào việc phát triển phong trào cách mạng ở địa phương.

* ĐỘI VIỆT NAM TUYÊN TRUYỀN GIẢI PHÓNG QUÂN (VNTTGPQ):

Thành lập theo Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lễ thành lập được tổ chức vào ngày 22-12-1944 tại một khu rừng giữa 2 tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng. Đồng chí Võ Nguyên Giáp được Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch ủy nhiệm tổ chức, lãnh đạo và chỉ huy.

Đội gồm 34 người, 34 khẩu súng, biên chế thành 3 tiểu đội, do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng, Xích Thắng làm chính trị viên. Đội viên là những chiến sĩ kiên quyết, dũng cảm được lựa chọn trong các đội du kích Cao-Bắc-Lạng và trong số người đi học quân sự ở nước ngoài về.

Sau lễ thành lập, Đội lập chiến công đầu diệt 2 đồn Phai Khắt, Nà Ngần  (Cao Bằng).Tiếp đó từ căn cứ Cao-Bắc-Lạng, đội phát triển lên thành nhiều đại đội, tiến hành vũ trang tuyên truyền, liên tiếp giành thắng lợi chính trị và quân sự, góp phần củng cố và mở rộng khu căn cứ, phát triển mạnh mẽ phong trào cách mạng. Đội VNTTGPQ là đội chủ lực của các lực lượng vũ trang Cách mạng Việt Nam. Ngày thành lập đội 22-12 trở thành Ngày truyền thống vẻ vang của QĐ NDVN và là Ngày Hội quốc phòng toàn dân ngày nay.

* ĐỘI DU KÍCH BA TƠ

Ra đời trong cuộc khởi nghĩa Ba Tơ (Quảng Ngãi) tháng 3-1945. Đội được chính thức thành lập ngày 14-3-1945, lực lượng gồm 28 người có 24 khẩu súng chia thành 3 tiểu dội, do đồng chí Nguyễn Đông, Phạm Kiệt sau thêm đồng chí Nguyễn Chánh chỉ huy Đội đi vào hoạt động trong vùng đồng bào Thượng trên dải Trường Sơn, vượt qua mọi khó khăn gian khổ và sự truy lùng của phát-xít Nhật, đội đã phát triển thành 2 đại đội mang tên Phan Đình Phùng và Hoàng Hoa Thám; mở rộng địa bàn hoạt động ra toàn tỉnh và nhiều tỉnh ở Bắc và Nam Trung bộ.

* VIỆT NAM GIẢI PHÓNG QUÂN (VNGPQ):

Là tổ chức vũ trang được xây dựng trên cơ sở hợp nhất các lực lượng vũ trang cách mạng trong cả nước theo quyết định của Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (tháng 4-1945). Lễ thành lập được tổ chức ngày 15-5-1945, tại Định Biên Thượng (Chợ Chu, Thái Nguyên). Lực lượng gồm 13 đại đội từ các đơn vị Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại căn cứ Cao - Bắc- Lạng thống nhất lại và nhiều đại đội, trung đội khác được thành lập ở một số tỉnh, huyện.

VNGPQ khẩn trương xây dựng mọi mặt phát triển tổ chức, trang bị, tiến hành công tác đảng, công tác chính trị, huấn luyện, đào tạo cán bộ, lập xưởng sửa chữa, chế tạo vũ khí thô sơ…đồng thời cùng các lực lượng vũ trang địa phương và nhân dân đánh bại các cuộc tiến công của phát-xít Nhật vào khu giải phóng Cao-Bắc-Lạng, Thái - Hà- Tuyên; đẩy mạnh chiến tranh du kích, sẵn sàng tiến tới tổng khởi nghĩa.

Cùng với các tổ chức vũ trang trên, từ sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) trên cả nước còn xuất hiện một số tổ chức vũ trang cách mạng. Đó là: Đội du kích chiến khu Vần (Hoàng Liên Sơn), trung đội du kích tập trung chiến khu Quang Trung (Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa), Đội du kích chống Nhật ở chiến khu Đông Triều (Quảng Ninh) Đội du kích Bãi Sậy (Hưng Yên) các đội cảm tử, đội xung phong vũ trang ở Bến Tre, Mỹ Tho, Sa Đéc (Nam bộ).

Các tổ chức vũ trang ra đời và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, được nhân dân đùm bọc, đã vượt qua khó khăn, gian khổ, chiến đấu hy sinh, góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển của cách mạng, và cùng toàn dân tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945.

TẤN ĐỜI

.
.
.