Thứ Sáu, 20/06/2014, 19:00 (GMT+7)
.

ĐBQH Nguyễn Hữu Hùng: Phát biểu về dự thảo Luật Hải quan (sửa đổi)

Ngày 30-5-2014, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Hải quan (sửa đổi).

Đại biểu Nguyễn Hữu Hùng, Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến về các nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, về các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực hải quan. Quy định này rất cần thiết để làm căn cứ pháp lý cho việc định ra các hành vi và hình thức xử phạt vi phạm. Tuy nhiên, trong dự án luật này hành vi bị nghiêm cấm không được quy định cụ thể ở những điều, khoản riêng biệt, sẽ gây ra những khó khăn nhất định trong quá trình thực thi Luật.

Vì vậy, để thực hiện Hiến pháp năm 2013, quy định những hành vi cấm và liên quan đến quyền của công dân phải được luật hóa, luật định, do đó đề nghị dự thảo Luật bổ sung cụ thể các điều, khoản quy định về hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực hải quan.

Về nội dung này, qua nghiên cứu thấy rằng Bộ Luật hình sự đã quy định các tội phạm trong lĩnh vực hải quan. Căn cứ vào quy định của Luật hải quan hiện hành, Chính phủ cũng đã ban hành nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hải quan. Vì vậy, về nội dung cần được rà soát đánh giá các hành vi đã được quy định để đưa vào quy định các hành vi bị nghiêm cấm.

Ví dụ như các quy định về trốn tránh khai báo hoặc khai báo gian dối khi làm thủ tục hải quan; hành vi không tái xuất hàng thuộc diện tạm nhập tái xuất; hay hành vi xuất, nhập khẩu hàng cấm; hành vi đánh tráo hàng hóa đã kiểm tra hải quan bằng hàng chưa kiểm tra hải quan; hành vi giả mạo thủ tục hải quan; hành vi không chấp hành hiệu lệnh của công chức hải quan khi vận chuyển hàng hóa trong địa bàn hải quan; hành vi cố tình không tái xuất phế liệu, không đáp ứng các quy chuẩn về kỹ thuật môi trường theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường… đây là những quy định rất cần thiết để bảo đảm cho công tác hải quan của chúng ta được thực hiện một cách thuận lợi.

Đồng thời, đề nghị chuyển các quy định cấm hành vi của công chức hải quan được quy định tại Khoản 2 của Điều 14 và Điểm h, Khoản 2 của Điều 17, Khoản 1, Điều 48 vào điều này hình thành một điều quy định riêng.

Thứ hai, về nhiệm vụ và tổ chức của hải quan quy định tại Chương II. Ở chương này theo dự thảo luật thì gồm có 4 điều.

Về mặt kỹ thuật lập pháp còn có nội dung quy định chưa được rõ rang, như: Điều 13 khi quy định về hệ thống tổ chức hải quan đã gắn vào quy định về chế độ phục vụ, tiêu chuẩn lương, phụ cấp thâm niên, chế độ đãi ngộ khác đối với công chức hải quan như đã quy định tại Khoản 2 của điều này, đề nghị cần phải tách riêng nội dung này chuyển sang quy định về công chức hải quan ở Điều 14 sẽ hợp lý hơn. Đồng thời, cần phải hoàn thiện, bổ sung quy định chế độ phục vụ của công chức hải quan cho toàn diện hơn.

Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống tổ chức của hải quan: tán thành như quy định tại Điều 12 và Khoản 1 Điều 13 của dự thảo luật và Báo cáo giải trình của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Tuy nhiên, khi quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ đối với tổ chức hải quan thì tại Khoản 2, Điều 13, có nội dung quy định chưa rõ và còn trùng lắp; cụ thể khoản này Chính phủ quy định tiêu chí thành lập Cục hải quan, nhưng đồng thời lại quy định cụ thể về tổ chức, nhiệm vụ hoạt động của hải quan các cấp; đề nghị xem xét chỉnh lý, bổ sung nội dung quy định tại điều này để đảm bảo tính hợp lý và khả thi của Luật .

Mặt khác, một yêu cầu rất quan trọng là phải quy định chỉ tiêu biên chế đối với lực lượng hải quan, nhưng dự thảo Luật chưa quy định rõ nguyên tắc đối với vấn đề biên chế mà mới chỉ nói về vấn đề tổ chức. Vì vậy, đề nghị cần nghiên cứu, bổ sung để quy định cho chặt chẽ hơn.

Về chế độ phục vụ của công chức hải quan: quy định như dự thảo luật là chưa rõ rang, cụ thể, như: các chế độ đối với công chức hải quan, về cơ bản là phải thực hiện theo quy định của Luật cán bộ, công chức. Tuy nhiên, do yêu cầu đặc thù của ngành, nếu cần thiết thì chỉ quy định bổ sung các chế độ đãi ngộ đặc thù đối với công chức hải quan so với cán bộ, công chức khác.

Vì vậy, để bảo đảm tính minh bạch trong chính sách, đề nghị nghiên cứu và có quy định cụ thể hơn về các chế độ đặc thù của công chức hải quan và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này.

Thứ ba, về nguyên tắc tiến hành thủ tục hải quan, kiểm tra, kiểm soát hải quan quy định tại Điều 15:  đề nghị bổ sung cụm từ minh bạch, chặt chẽ, thống nhất vào Khoản 4 của điều này để thể hiện rõ nguyên tắc hoạt động của hải quan là tập trung thống nhất. Như vậy, Khoản 4 được thể hiện lại như sau: “Thủ tục hải quan phải được thực hiện công khai, minh bạch, chặt chẽ thống nhất, nhanh chóng, thuận tiện, theo đúng quy định của pháp luật”.

Thứ tư, về thời hạn cơ quan hải quan làm thủ tục hải quan quy định tại Điều 22: Tại Điểm a, Khoản 2 quy định về thời hạn công chức hải quan hoàn thành kiểm tra hồ sơ, chậm nhất là 02 giờ làm việc, kể từ thời điểm cơ quan hải quan tiếp nhận đầy đủ hồ sơ hải quan.

Đề nghị rút ngắn hơn nữa để tiết kiệm thời gian cho nộp tờ khai hải quan và thể hiện trách nhiệm của công chức về hồ sơ hải quan được quy định tại Điều 23 là khá đơn giản, nên có thể rút ngắn được thời gian xuống còn 01 giờ là đủ và để tránh phiền hà không đáng có.

Thứ năm, vấn đề kiểm tra sau thông quan quy định tại Điều 76: Tại Khoản 3 quy định “Thời hạn kiểm tra sau thông quan là 05 năm, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan”. Vấn đề này qua phản ảnh của các doanh nghiệp, nếu quy định thời gian 5 năm là quá dài, nếu được kiểm tra sớm hơn có thể giúp doanh nghiệp sớm chấn chỉnh, hoàn thiện hồ sơ và rút kinh nghiệm để khắc phục những tồn tại trong các hoạt động xuất, nhập khẩu của mình; nếu để 5 năm thì doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn đối với những chứng từ hải quan không hợp lệ và sẽ khó khắc phục, có thể sẽ bị phạt và gây ra những thiệt hại ngoài ý muốn cho doanh nghiệp.

Thứ sáu, về thẩm quyền của cơ quan hải quan, công chức hải quan trong việc xử lý hành vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới, quy định tại Điều 89: Tại Khoản 2 điều này quy định khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan hải quan, công chức hải quan có thẩm quyền khởi tố vụ án, khởi tố bị can, thực hiện điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật tổ chức điều tra hình sự.

Như vậy, để bảo đảm sự thống nhất với Bộ luật tố tụng hình sự quy định tại Điều 104, đề nghị thay thế cụm từ "cơ quan hải quan, công chức hải quan" bằng cụm từ "Thủ trưởng cơ quan hải quan" để quy định cụ thể về thẩm quyền và bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Thứ bảy, về “Trang bị và sử dụng trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện phục vụ phòng, chống buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới tại Điều 91: Việc trang bị và sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ để phục vụ công tác của lực lượng hải quan có liên quan đến việc bảo đảm về quyền con người, quyền công dân; do vậy, đề nghị cần phải có những điều khoản riêng để quy định cụ thể, chặt chẽ nội dung này nhằm đảm bảo sự thống nhất với pháp luật hiện hành về vấn đề này.

ĐĂNG HIẾU (tổng hợp)

.
.
.