ĐBQH Trương Thị Thu Trang:Góp ý dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình(sửa đổi)
Ngày 27-5, Quốc hội thảo luận ở Hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi). Đại biểu Trương Thị Thu Trang, Đoàn ĐBQH tỉnh Tiền Giang phát biểu thảo luận về các nội dung cụ thể như sau:
1. Giải thích từ ngữ
Đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung để rõ hơn về khái niệm “hôn nhân thực tế” vào dự thảo để tiếp tục điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình đối với các cặp vợ chồng xác lập quan hệ hôn nhân trước 03-01-1987, không đăng ký kết hôn mà hiện nay được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tế theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của QH khoá X về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình nhằm hoàn chỉnh hệ thống quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình trong thời gian sắp tới. Vì thực tế, hiện nay, nhất là ở các vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa vẫn còn rất nhiều trường hợp hôn nhân thực tế như thế này.
Theo đó, với đề nghị nêu trên, để đảm bảo tính chặt chẽ của toàn bộ dự án luật, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung nội dung “trừ trường hợp hôn nhân thực tế” vào khoản 2 Điều 53 về quy định thụ lý đơn yêu cầu ly hôn. Bởi, các trường hợp hôn nhân thực tế, dù không đăng ký kết hôn nhưng vẫn được công nhận là vợ chồng và được giải quyết ly hôn theo quy định của pháp luật khi có yêu cầu. Như vậy khoản 2 Điều 53 đề nghị thể hiện lại như sau:
“Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 điều 14 của Luật này, trừ trường hợp hôn nhân thực tế; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại điều 15 và điều 16 của Luật này”.
2. Quyền lưu cư của một bên vợ, chồng khi ly hôn (Điều 63)
Quy định về quyền lưu cư của một bên vợ, chồng khi ly hôn thể hiện được cái tình, cái nghĩa còn lại của những người đã từng là vợ, chồng với nhau, nhất là đối với người có khó khăn về nhà ở sau khi ly hôn.
Tuy nhiên, để tránh trường hợp lạm dụng, đảm bảo quyền lợi chính đáng của chủ sở hữu nhà, tránh tình trạng bên được lưu cư lợi dụng quyền lưu cư của mình cản trở bên còn lại thực hiện các quyền được pháp luật quy định (như quyền định đoạt về tài sản, về hôn nhân...), đề nghị Ban soạn thảo xem xét, bổ sung nội dung quy định về nghĩa vụ của bên được lưu cư sau khi hết thời hạn được lưu cư; như vậy cần bổ sung quy định tại Điều 63 nội dung như sau:
“2. Sau khi hết thời hạn lưu cư, bên lưu cư phải di chuyển đến nơi ở mới, trả lại nơi ở cho chủ sở hữu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”.
3. Về Quan hệ nhân thân, tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết trở về (Điều 67)
- Tại Khoản 1 Điều này quy định: “Khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục tại thời điểm kết hôn. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật.”
Tuy nhiên, đối với trường hợp vợ, chồng của người bị Toà án tuyên bố là đã chết tuy chưa kết hôn với người khác nhưng đã được Toà án ra quyết định cho ly hôn theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 56 của dự án luật sẽ được giải quyết như thế nào thì dự án luật vẫn chưa đề cập đến.
Bởi theo điểm a Khoản 2 Điều 83 của Bộ luật Dân sự hiện hành quy định: “Vợ hoặc chồng của người bị tuyên bố là đã chết đã được Toà án cho ly hôn theo quy định tại khoản 2 điều 78 BLDS thì quyết định cho ly hôn vẫn có hiệu lực pháp luật”
Do đó, để việc áp dụng pháp luật được thống nhất, tạo thuận lợi trong việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án sau khi luật có hiệu lực thi hành; đề nghị Ban soạn thảo xem xét bổ sung nội dung này vào khoản 1 và thể hiện lại như sau:
“1. Khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định của Bộ luật dân sự mà vợ hoặc chồng của người đó chưa được toà án cho ly hôn hoặc chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục tại thời điểm kết hôn. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác hoặc đã được Tòa án cho ly hôn thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau hoặc quyết định cho ly hôn của Tòa án theo quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 56 của Luật này có hiệu lực pháp luật.”
- Tại Khoản 2 Điều này quy định: “Khi hôn nhân được khôi phục thì tài sản của vợ chồng được giải quyết theo quy định tại Điều 40 của Luật này”
Việc áp dụng Điều 40 về hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp này là chưa chuẩn xác. Bởi, hệ quả của việc giải quyết quan hệ tài sản khi vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết trở về khi hôn nhân được khôi phục có phần khác so với hệ quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, cụ thể là: Việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được chấm dứt khi có thỏa thuận của vợ chồng về chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân và theo hình thức được quy định.
Còn đối với trường hợp hôn nhân được khôi phục do vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết trở về theo quy định tại Khoản 1 Điều này, thì quan hệ tài sản chung đương nhiên được khôi phục cùng lúc với việc khôi phục quan hệ hôn nhân mà không cần có thỏa thuận là điều hợp lý.
Tuy nhiên, dự luật cũng cần tính đến công sức đóng góp, tôn tạo, giữ gìn và phát triển khối tài sản chung của người còn lại trong thời gian vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết; đồng thời, cần có quy định mở để giải quyết chế độ tài sản trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục và tài sản của người được tuyên bố là đã chết trở về đã được giải quyết theo quy định của pháp luật theo các thủ tục ly hôn hoặc thừa kế.
Theo đó, để quy định được cụ thể, rõ ràng, tạo thuận lợi trong việc áp dụng pháp luật, đề nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 67 nội dung cụ thể như sau:
“2. Quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về với người vợ hoặc chồng được giải quyết như sau:
a) Trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó.
b) Trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như quy định tại Điều 59 của Luật này.
c) Tài sản của người bị tuyên bố là đã chết trở về được giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự.”
4. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn
Điều 115: “khi ly hôn, nếu bên khó khăn, túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của mình” và nghĩa vụ cấp dưỡng này chấm dứt khi: “bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn” (khoản 5 điều 118)
Việc quy định nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp này nhằm thể hiện tình nghĩa giữa những người đã từng là vợ chồng với nhau. Tuy nhiên, việc xác định khả năng cấp dưỡng phải phụ thuộc vào thu nhập của người cấp dưỡng, nhưng khi người này kết hôn với người khác thì thu nhập này thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Và theo Khoản 2 Điều 33, tài sản chung của vợ chồng được dùng để đảm bảo nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ, chồng.
Vì vậy, đề nghị bổ sung trường hợp chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng khi bên cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác và thể hiện lại Khoản 5 Điều 118 như sau:
“5. Bên cấp dưỡng hoặc bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn”
5. Về độ tuổi kết hôn (điểm a khoản 1 điều 8)
Đồng tình với phương án nam, nữ đủ 18 tuổi trở lên mà ban soạn thảo đã trình trước đây, nhằm khắc phục sự lệch pha trong quy định pháp luật giữa các luật với nhau trong thời gian qua (người có đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định chung của pháp luật là 18 tuổi, nhưng khi đó lại không được quyết định việc kết hôn của mình do không đủ điều kiện về tuổi kết hôn theo luật định là nam từ 20 tuổi trở lên), nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa luật này với các luật khác: Bộ luật dân sự, bộ luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính về độ tuổi thành niên, về năng lực hành vi dân sự, tố tụng dân sự của cùng 1 người.
ĐĂNG HIẾU (tổng hợp)