Thứ Sáu, 10/10/2014, 14:25 (GMT+7)
.

Giá trị lý luận&thực tiễn tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Bác

Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng nhất bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng và trong hoạt động thực tiễn cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân tộc của Người là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực tiễn hết sức quan trọng.

LẤY DÂN LÀM GỐC

Trong bài báo Dân vận, Người nêu rõ: “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Như vậy, Người đã chỉ rõ vai trò, khả năng cách mạng của nhân dân là rất to lớn, có tính quyết định. Điều đó càng khẳng định chân lý “Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.

Khi bàn về dân vận là gì, Người viết: “Dân vận là vận động tất cả các lực lượng của mỗi một người dân, không để sót một người dân nào góp thành lực lượng toàn dân để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho”.

Theo tư tưởng nêu trên, đối tượng của công tác dân vận là nhân dân. Mục tiêu công tác dân vận là mục tiêu chung của cách mạng. Nội dung cơ bản của công tác dân vận là tổ chức lực lượng nhân dân, là đoàn kết toàn dân để thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng. Phương thức công tác dân vận là phải tiến hành từ cơ sở, nắm chắc tình hình nhân dân và tiến hành vận động nhân dân ngay từ cơ sở.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng phương châm “Lấy dân làm gốc”, bởi vì dân là quý nhất, dân là tối thượng, dân là gốc của nước, của cách mạng. Khi bàn về công tác quần chúng của Đảng, Người căn dặn: “Nước lấy dân làm gốc. Gốc có vững thì cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

Người còn khẳng định vai trò và tính quyết định của nhân dân trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng và công việc của cộng đồng dân cư rằng “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng không nên”.

Đảng, chính quyền muốn giành thắng lợi phải tôn trọng nhân dân, dựa vào nhân dân, quý trọng nhân dân. Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề đoàn kết, tập hợp lực lượng đông đảo của nhân dân. Đảng dù vĩ đại đến đâu cũng chỉ là một bộ phận của nhân dân. Người tổng kết: “Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.

Đoàn kết toàn dân là một nội dung cơ bản của công tác dân vận. Vì vậy, Người kêu gọi “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”. Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, quy mô của đoàn kết quyết định quy mô, mức độ của thành công.

Chính sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết đã làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Và Người khuyên rằng: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.

5 NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT

Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với con người. Theo tư tưởng của Người, liên minh công - nông - trí làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc. Chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây dựng, hoàn thiện và tuân theo 5 nguyên tắc nhất quán sau.

Một là, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp có lợi ích khác nhau, nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc.

Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích. Người có tư tưởng đoàn kết rất khoan dung và vì lợi ích tối cao: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.

Hai là, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta, được Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử”.

Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Ba là, đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, chặt chẽ. Theo Hồ Chí Minh, muốn đoàn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi.

Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực lượng xã hội có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Tính chặt chẽ, bền vững, lâu dài của đại đoàn kết đòi hỏi phải củng cố, tăng cường khối liên minh công nhân, nông dân, trí thức làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bốn là, đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn gắn với tự phê bình, phê bình. Trong xã hội có cả những người tích cực, tiên tiến và những người tiêu cực, chậm tiến. Để giải quyết thực tế đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phương châm “Cầu đồng tôn dị”, lấy cái chung, đề cao cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; tăng cường đấu tranh để thực hiện đoàn kết.

Người căn dặn: “Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Tự phê bình và phê bình phải xuất phát từ lòng chân thành, nhân ái vì mục tiêu tăng cường sự đoàn kết, nhất trí.

Năm là, đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn dân tộc  là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết quốc tế. Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thực hiện thành công là một nhân tố quyết định cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Do làm tốt công tác dân vận, xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta khẳng định: “Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của bản lĩnh và trí tuệ của con người Việt Nam, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Sự nghiệp đổi mới đất nước trong hơn 25 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế. Chính thành tựu ấy càng làm cho nhân dân tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, tin tưởng vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.

Trong tình hình mới, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục quán triệt, học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, củng cố, mở rộng và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần giữ vững độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong các bài học của cách mạng Việt Nam, bài học về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc luôn được nêu rõ qua các kỳ đại hội Đảng, đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam.

THÁI SƠN (biên soạn)

.
.
.