Một số quyết sách mang tính đột phá của Đảng giai đoạn 1930 - 1975
Ngày 5-9-1960, Đảng Lao động Việt Nam họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. Trong diễn văn khai mạc Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. |
1. Quyết sách chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng tại các Hội nghị Ban Chấp hành (BCH) Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 11-1939), lần thứ 7 (tháng 11-1940) và lần thứ 8 (tháng 5-1941)
- Hoàn cảnh lịch sử
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. 2 ngày sau, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ. Phát xít Đức lần lượt đánh chiếm các nước châu Âu. Tháng 6-1940, Đức tấn công Pháp, Chính phủ Pháp đầu hàng. Tháng 6-1941, Đức tấn công Liên Xô. Từ đây, tính chất chiến tranh thay đổi, Liên Xô trở thành trụ cột của các lực lượng chống phát xít.
Khi chiến tranh thế giới bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Việt Nam thi hành nhiều chính sách phản động. Bọn chúng phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân, tăng cường bắt bớ tù đày, thủ tiêu các quyền tự do dân chủ, bắt hàng vạn thanh niên sang Pháp làm bia đỡ đạn, thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy”, vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh.
Ngày 22-9-1940, phát xít Nhật đánh chiếm Lạng Sơn. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, thực dân Pháp ký Hiệp định đầu hàng phát xít Nhật. Từ đó nhân dân ta chịu cảnh một cổ hai tròng, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn thực dân, phát xít Pháp - Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
- Quyết sách chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng
Khi chiến tranh thế giới lần thứ II bùng nổ, BCH Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6, Hội nghị lần thứ 7 và Hội nghị lần thứ 8. Trên cơ sở nhận định tình hình thế giới và trong nước, BCH Trung ương Đảng đã đề ra quyết sách chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Một là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. BCH Trung ương Đảng nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu và đòi hỏi phải giải quyết cấp bách mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn thực dân, phát xít Pháp - Nhật. Do đó, BCH Trung ương Đảng quyết định đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, còn nhiệm vụ chống phong kiến, đòi quyền lợi ruộng đất thì thực hiện từng bước trong quá trình đấu tranh cách mạng.
Hai là, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Mặt trận Việt Minh, để đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính yếu là giải phóng dân tộc.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, xem đây là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ tiền khởi nghĩa.
Để đưa cuộc khởi nghĩa giành chính quyền đi đến thắng lợi, BCH Trung ương Đảng chỉ rõ: Cần phải phát triển lực lượng cách mạng về chính trị và vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn (Lạng Sơn), thành lập các đội du kích hoạt động phân tán chiến đấu chống địch và bảo vệ nhân dân.
- Ý nghĩa lịch sử của quyết sách
Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, BCH Trung ương Đảng đã hoàn thành sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết vấn đề cấp bách đặt ra là độc lập dân tộc; đồng thời, đề ra nhiều chủ trương đúng đắn để thực hiện mục tiêu đó. Đó là một quyết sách mang tính chiến lược, là ngọn cờ dẫn đường cho nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đánh đuổi thực dân Pháp, phát xít Nhật, giành độc lập, tự do cho đất nước.
2. Quyết sách trong việc đề ra đường lối thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở 2 miền Nam - Bắc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9-1960)
- Hoàn cảnh lịch sử
Sau Hiệp định Genève (tháng 7-1954), cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới, vừa đứng trước những khó khăn, phức tạp.
+ Thuận lợi:
Các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN), nhất là Liên Xô tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự và khoa học - kỹ thuật; phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới tiếp tục phát triển mạnh mẽ; phong trào hòa bình, dân chủ ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) ngày càng dâng cao.
Ở nước ta, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng làm căn cứ địa cách mạng cho cả nước; thế và lực của cách mạng không ngừng lớn mạnh; ý chí độc lập, thống nhất Tổ quốc của nhân dân trở nên mạnh mẽ, sôi sục hơn bao giờ hết.
+ Khó khăn:
Nhân dân ta phải đối phó với đế quốc Mỹ vốn có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh nhất trên thế giới; thế giới đang trong thời kỳ chiến tranh lạnh, việc chạy đua vũ trang giữa các nước đế quốc và các nước XHCN diễn ra gay gắt; trong hệ thống XHCN, có sự bất đồng sâu sắc giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Nước ta tạm thời bị chia cắt làm 2 miền với 2 chế độ chính trị khác nhau: Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) trong hoàn cảnh nghèo nàn, lạc hậu do chiến tranh kéo dài và hậu quả từ chính sách khai thác, bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp; miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ trong khuôn khổ của chế độ TBCN.
- Quyết sách của Đảng trong việc đề ra đường lối thực hiện đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược cách mạng ở 2 miền Nam - Bắc của Đảng.
Từ sau tháng 7-1954, đặc điểm lớn nhất của cách mạng nước ta là một Đảng lãnh đạo 2 cuộc cách mạng khác nhau ở 2 miền đất nước với 2 chế độ chính trị khác nhau. Trong bối cảnh lịch sử đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Hà Nội từ ngày 5 đến 10-9-1960.
Đại hội đã đề ra đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới. Về nhiệm vụ chung của cách mạng cả nước, Đại hội chỉ rõ: “Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc; đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân (CMDTDCND) ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe XHCN và bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Đồng thời, Đại hội cũng đã hoạch định nhiệm vụ chiến lược: “Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có 2 nhiệm vụ chiến lược: Một là, tiến hành cách mạng XHCN ở miền Bắc. Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước”. Trên cơ sở đó, Đại hội đề ra mục tiêu chiến lược: “Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và cách mạng ở miền Nam thuộc 2 chiến lược khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh đất nước tạm bị chia cắt. 2 nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hòa bình và thống nhất Tổ quốc”.
Về mối quan hệ của cách mạng 2 miền, Đại hội nhấn mạnh: “Do cùng thực hiện 1 mục tiêu chung nên 2 nhiệm vụ chiến lược ấy có liên hệ mật thiết với nhau và tác dụng thúc đẩy lẫn nhau”; trong đó, cách mạng XHCN ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa cách mạng của cả nước, hậu thuẫn cho CMDTDCND ở miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên CNXH, nên giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam.
CMDTDCND ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà, hoàn thành CMDTDCND trong cả nước”.
Cuối cùng, Đại hội khẳng định triển vọng của cách mạng Việt Nam là: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà là một quá trình đấu tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài; nhưng thắng lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam - Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên CNXH.
- Ý nghĩa của quyết sách
Quyết sách chiến lược cách mạng do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra có ý nghĩa hết sức to lớn, thể hiện tư tưởng chiến lược của Đảng là giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, vừa phù hợp với miền Bắc, vừa phù hợp với miền Nam, vừa phù hợp với cả nước và tình hình quốc tế.
Vì vậy, với quyết sách đó, Đảng ta đã huy động và kết hợp được sức mạnh hậu phương và tiền tuyến, sức mạnh cả nước và sức mạnh thời đại, tranh thủ được sự giúp đỡ của cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN anh em và lực lượng tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Quyết sách đó đã tạo ra sức mạnh tổng hợp để nhân dân ta đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và bọn tay sai, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Quyết sách đó đã thể hiện được tinh thần độc lập, tự chủ, năng động và sáng tạo của Đảng trong việc giải quyết những vấn đề không có tiền lệ lịch sử của phong trào cách mạng thế giới.
Đó là một Đảng duy nhất lãnh đạo 2 cuộc cách mạng ở 2 miền của đất nước với 2 chế độ chính trị khác nhau, vừa đúng với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với lợi ích của nhân loại và xu thế của thời đại. Lúc bấy giờ, trên thế giới có một số nước bị chia cắt ra làm 2 miền với 2 chế độ chính trị đối lập nhau, như Cộng hòa Liên bang Đức (TBCN), Cộng hòa Dân chủ Đức (XHCN); Đại Hàn Dân quốc (TBCN), Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên (XHCN)…
Tuy nhiên, Đảng cộng sản cầm quyền ở các nước XHCN đó (ở Cộng hòa Dân chủ Đức là Đảng XHCN thống nhất Đức, ở Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên là Đảng Lao động Triều Tiên) chỉ đề ra đường lối tiến hành cách mạng XHCN ở quốc gia mình mà thôi; không như Đảng ta đề ra đường lối tiến hành đồng thời 2 nhiệm vụ chiến lược là cách mạng XHCN ở miền Bắc và CMDTDCND ở miền Nam.
Đường lối chiến lược chung cho cả nước và đường lối cách mạng ở mỗi miền là cơ sở để Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo quân và dân ta giành được những thành tựu to lớn trong xây dựng CNXH ở miền Bắc và đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện hòa bình, thống nhất nước nhà và đưa cả nước đi theo con đường định hướng XHCN mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 2-1930) đã vạch ra.
NGUYỄN PHÚC NGHIỆP