Thứ Tư, 19/08/2020, 14:53 (GMT+7)
.

Ngọn cờ đầu trong phong trào kháng Pháp ở Nam bộ

Viếng Tượng đài AHDT Trương Định tại TX. Gò Công.                                                                                                      Ảnh: NGUYỄN THIỂU
Viếng Tượng đài AHDT Trương Định tại TX. Gò Công. Ảnh: NGUYỄN THIỂU

Trương Định sinh năm 1820 tại xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi; thuở nhỏ tướng mạo khôi ngô, xuất thân trong một gia đình nhà quan, sớm làm quen với binh thư đồ lược nên tinh thông võ nghệ. Nguyễn Đình Chiểu đã từng ca ngợi: “Pháp binh trăm trận đã làu, võ nghệ mấy ban cũng trải”.

NHẬN TƯỚC VỊ “BÌNH TÂY ĐẠI NGUYÊN SOÁI” DO DÂN PHONG

Trương Định là con của quan Thủy vệ úy Trương Cầm, tỉnh Gia Định. Năm 22 tuổi (1844), Trương Định theo cha vào Nam và cưới vợ là bà Lê Thị Thưởng, con nhà hào phú ở làng Tân Phước, huyện Tân Hòa, tỉnh Gò Công (nay thuộc tỉnh Tiền Giang).

Năm 1854, nhà Nguyễn có chính sách cho phép dân Nam kỳ được phép mộ dân lập đồn điền, Trương Định đã bỏ tiền của, mộ dân nghèo khẩn đất hoang để lập đồn điền và được phong tước Phó quản cơ (thời kỳ này, triều Nguyễn quy định ai mộ được một đội 50 người thì bổ phụ hàm Suất đội, ai mộ đủ một cơ 500 người thì bổ phụ hàm Phó Quản cơ).

Năm 1859, ông gom hết tài sản và đi quyên góp giúp dân miền Trung bị nạn đói. Trong năm này, Trương Định đã đưa gia quyến và mộ được 5.000 dân nghèo vùng Quảng Nam - Quảng Ngãi vào khai hoang lập ấp tại các vùng Tân Phước, Kiểng Phước, Gia Thuận (tỉnh Gò Công).

Khi quân Pháp tấn công Đà Nẵng, kéo quân vào đánh Bến Nghé, Gia Định tháng 2-1859, Trương Định mang cơ binh đồn điền của mình gia nhập quân đội triều đình chống giặc.

Thành Gia Định thất thủ, Trương Định đem quân đóng ở Thuận Kiều (Chợ Lớn), ông thường đi tiên phong trong các trận đánh, lập nhiều chiến công, như phục kích giết tên đại úy Barbé của Pháp ngày 7-12-1860. Đầu năm 1861, sau trận thua ở Phú Thọ - Sài Gòn, Trương Định lui quân về Gò Công, tích trữ lương thực, rèn đúc vũ khí và chiêu mộ nghĩa quân, vây đánh nhiều đồn giặc Gia Thạnh, Rạch Gầm…

Từ ngày 28-2 đến 6-3-1862, nghĩa quân Trương Định hoạt động mạnh vùng chợ Cũ - Mỹ Tho. Đầu năm 1862, trận nổi bật của nghĩa quân Trương Định là tấn công Chợ Lớn, thiêu hủy nhiều cơ sở, trong đó có kho đạn của địch. Với những chiến công liên tiếp, Trương Định được thăng chức Phó Lãnh binh Gia Định.

Hơn 5 năm chiến đấu tính từ ngày giặc Pháp xâm lược nước ta tháng 2-1859 đến ngày Trương Định mất (20-8-1864) chưa phải là dài, nhưng cuộc khởi nghĩa của ông lập nhiều chiến công vang dội trong điều kiện lực lượng so sánh quá chênh lệch giữa ta và địch. Uy danh của Trương Định ngày càng lớn và phong trào khởi nghĩa của ông ở Gò Công lan rộng ra khắp cả nước, xứng đáng là ngọn cờ đầu trong phong trào kháng Pháp ở Nam bộ nửa sau thế kỷ XIX.

Tháng 3-1862, giặc Pháp tấn công chiếm thành Vĩnh Long, vua Tự Đức hoảng sợ, từ chủ chiến chuyển sang chủ hòa, cử Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định ký Hiệp ước Nhâm Tuất ngày 5-6-1862 cắt 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ (Biên Hòa, Gia Định và Định Tường) cho Pháp đổi lấy thành Vĩnh Long. Triều đình ra lệnh cho Trương Định bãi binh, phong chức Lãnh binh An Hà, buộc phải bãi binh ở Tân Hòa và gấp rút nhận chức mới ở tỉnh An Giang, nhưng nhân dân Gò Công và nghĩa quân đề nghị ông ở lại để lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược.

Trong lúc đang lưỡng lự giữa ý dân và lệnh vua chưa biết ngã về đâu, Trương Định nhận được thư của nghĩa hào huyện Tân Long (Chợ Lớn), tỏ ý muốn cử ông làm chủ soái 3 tỉnh miền Đông để giết giặc. Cảm sự tín nhiệm của những người yêu nước và nhân dân, ông gạt bỏ lệnh của triều đình và nhận tước vị “Bình Tây đại nguyên soái” do dân phong.

ANH DŨNG CHIẾN ĐẤU, TUẪN TIẾT

Dưới ngọn cờ “Bình Tây đại nguyên soái”, ông động viên nhân dân đào hào đắp lũy, bố trí trận địa, xây dựng chiến tuyến phòng giữ những nơi hiểm yếu, mặt Đông ra tận biển, mặt Tây lên đến Gò Công Tây. Hiện nay, những nơi này vẫn còn các di tích như: Chiến lũy pháo đài xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông; lũy trại cá ở xã Tăng Hòa, ao Dinh ở xã Tân Phước và Đám lá tối trời ở xã Gia Thuận, huyện Gò Công Đông; lũy Đồng Sơn ở xã Đồng Sơn, huyện Gò Công Tây; lũy Dung Giang ở xã Bình Đông, TX. Gò Công và vịnh đá hàn, nơi nghĩa quân Trương Định lấy đá ngăn sông cửa Tiểu…

Mặt khác, Trương Định chọn những sĩ phu có tâm huyết làm tri phủ, tri huyện ở nhiều nơi thuộc 3 tỉnh miền Đông, ngay cả trong vùng địch đang chiếm đóng, để vận động sức người, sức của phục vụ cho cuộc kháng chiến. Trương Định ra lời hịch rất thống thiết hô hào các tầng lớp nhân dân chiến đấu giết giặc.

Trương Định còn liên kết chặt chẽ với các phong trào kháng Pháp lúc bấy giờ với các sĩ phu yêu nước: Thủ Khoa Huân ở Mỹ Tho - Chợ Gạo; Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười; Nguyễn Đình Chiểu, Phan Tòng ở Bến Tre; Nguyễn Trung Trực, Phan Đạt ở Tân An; Bùi Quang Diệu, Đỗ Quang ở Cần Giuộc… Do đó, thanh thế và lực lượng của ông ngày càng lớn mạnh, khiến kẻ thù phải lo sợ.

Viếng Tượng đài AHDT Trương Định tại TX.Gò Công
Viếng Tượng đài AHDT Trương Định tại TX.Gò Công

Hòng quật ngã ngọn cờ hiệu triệu của Trương Định, giặc Pháp lại dùng mưu gian. Một mặt chúng thúc giục quan tỉnh Vĩnh Long và Phan Thanh Giản gửi thư xuống lệnh buộc Trương Định bãi binh, nộp khí giới thì chúng mới trả thành Vĩnh Long. Một mặt chúng bắn tin thư chiêu dụ Trương Định đầu hàng. Mặc cho bọn quan triều hèn nhát và bọn giặc Tây xảo quyệt thuyết phục, đe dọa, lập trường của Trương Định vẫn không thay đổi.

Thất bại trong âm mưu chiêu hàng, năm 1862 giặc Pháp hạ lệnh tấn công Sơn Quy - là nơi đóng tổng hành dinh - bằng một lực lượng tập trung khá lớn. Trương Định lập kế hoạch dụ địch vào chỗ đầm lầy, bưng sình, giết được nhiều tên.

Tuy nhiên, để bảo toàn lực lượng chiến đấu lâu dài với giặc, Trương Định vừa bố trí những trận phục kích trên đường tiến quân của giặc, vừa cho quân rút an toàn về “Đám lá tối trời” vùng Phước Thuận (nay thuộc 2 xã Tân Phước và Gia Thuận, huyện Gò Công Đông).

Từ đây, Trương Định đã ra tuyên ngôn với danh nghĩa nhân dân Gò Công khẳng định với giặc là quyết tâm đánh đuổi chúng đến cùng, dù không có vũ khí tối tân thì dùng gậy gộc để đánh giặc. Giặc Pháp bao vây “Đám lá tối trời”, truy kích Trương Định và nghĩa quân.

Thấy được những mặt bất lợi của căn cứ địa Gò Công là đồng bằng bằng phẳng, trống trải dễ bị giặc bao vây tiêu diệt, Trương Định rút toàn bộ lực lượng ra khỏi Gò Công, chọn Lý Nhơn - Cần Giờ, một vị trí nằm giữa vùng đất phù sa có rừng dừa nước che kín giáp ranh Biên Hòa - Đồng Nai làm đại bản doanh.

Để có thời gian củng cố lực lượng, Trương Định cho phân tán nghĩa quân thành nhiều toán nhỏ. Tuy nhiên, việc xây dựng căn cứ mới gặp nhiều khó khăn, nhất là phải đối phó với thủ đoạn thâm độc của thực dân Pháp.

Sau khi chiếm Gò Công, ngày 12-3-1863, Thiếu tướng của quân đội Pháp là Bonard ra một tờ thông tri, với những nội dung: Xử tử hình người cầm đầu nghĩa quân, tịch thu tài sản, tổng số thuế năm 1862 được thu một lần, giao nộp toàn bộ vũ khí, cưỡng bức nhân dân lao dịch (làm đường, phá hủy đồn lũy của nghĩa quân)…

Để gây ảo tưởng hòa hoãn, hòa bình trong quần chúng nhân dân, Bonard và đại diện Chính phủ Tây Ban Nha tại Sài Gòn là Palanca ra Huế đề nghị triều đình nhà Nguyễn xúc tiến phê chuẩn Hiệp ước 1862 nhận lại thành Vĩnh Long, chuẩn bị sứ bộ sang Pháp chuộc 3 tỉnh miền Đông.

Để đối phó với âm mưu của giặc, Trương Định khẩn trương củng cố lực lượng, mua vũ khí, mộ thêm quân, nhiều toán nghĩa quân đi khắp nơi để vận động quần chúng. Địa bàn hoạt động từ vùng rừng núi Biên Hòa, Tây Ninh đến Sài Gòn, Đồng Tháp Mười… Những bài hịch của ông xuất hiện khắp nơi, ngay cả ở Mỹ Tho. Ông liên hệ chặt chẽ với Thiên Hộ Dương, cử người ra miền Trung mua thuốc đạn.

Thoát cuộc bố ráp truy kích của giặc ở Lý Nhơn, Trương Định trở về “Đám lá tối trời”, một mặt xây dựng lại lực lượng và cơ sở kháng chiến, một mặt truyền hịch đi khắp nơi lên án dã tâm xâm lược của kẻ thù và kêu gọi sĩ phu, mọi người hãy đứng lên, góp công, góp sức, hiến kế giúp ông đánh giặc, đó là Hịch Quản Định tháng 8-1864. Hưởng ứng lời hiệu triệu của Trương Định, một làn sóng kháng chiến lại sôi nổi ở Mỹ Tho, Tân An, Gò Công, Cần Giuộc, Chợ Lớn, Biên Hòa… làm cho giặc Pháp càng sốt ruột và càng ra sức truy tìm để diệt ông.

Về phía giặc Pháp, chúng liên tiếp áp dụng thủ đoạn thâm độc là cho bọn mật thám, bọn phản bội ráo riết theo dõi mọi hoạt động của nghĩa quân, bằng mọi cách phải phát hiện tung tích của Trương Định. Những mánh khóe gian ác của giặc đã có tác dụng đối với tên Việt gian Huỳnh Văn Tấn khét tiếng lúc bấy giờ, từng là thuộc hạ thân tín của Trương Định.

“Đánh hơi” được Trương Định về xã Phước Lộc (nay là ấp 3, xã Tân Phước, huyện Gò Công Đông) cùng 25 nghĩa quân đóng trong nhà của một người tâm phúc, Huỳnh Văn Tấn cho quân bao vây, đột nhập vào nhà đêm 19 rạng sáng ngày 20-8-1864.

Trương Định và những nghĩa quân của ông chống trả quyết liệt. Ông giết được một số tên địch, nhưng bản thân bị thương nặng, biết mình không sống được và quyết không để rơi vào tay giặc, sẵn gươm trong tay, ông điểm mặt tên Tấn rồi đâm vào bụng tự sát.

Ths.LÊ HỒNG QUÂN

.
.
.